LỜI
NÓI ĐẦU
Nghĩa Mai là xã miền núi nằm về phía Tây
Bắc của huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Trải qua các thời kỳ lịch sử, nhiều thế
hệ người con Nghĩa Mai đã đóng góp trí tuệ, công sức và cả xương máu để làm nên
giá trị văn hóa, bản sắc của vùng đất này. Đặc biệt, từ khi chi bộ Đảng xã Tân
Lập ra đời và lãnh đạo, cùng với đồng bào cả nước, nhân dân Nghĩa Mai đã góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Năm 1953, Chi bộ
Đảng Nghĩa Mai ra đời trên cơ sở được tách ra từ Chi bộ Đảng Tân Lập, Chi bộ đã
lãnh đạo nhân dân Nghĩa Mai kiên trì bám đất, bám làng lao động sản xuất, hăng
hái tham gia đánh giặc giữ nước và làm tròn nghĩa vụ với tiền tuyến. Trong công
cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai đã và
đang tích cực xây dựng quê hương phát triế về kinh tế, mạnh về chính trị, có
nền văn hóa phát triển, thực hiện thành công xây dựng nông thôn mới.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh:“dân ta phải biết sử ta”. Trong di chúc thiêng liêng của Người cũng ân cần
căn dặn:“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và
cần thiết”. Do vậy, để cán bộ, đảng viên, nhân dân, bạn bè và các thế hệ mai
sau hiểu rõ lịch sử hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai từ
khi có Đảng đến nay, góp phần giáo dục, phát huy truyền thống của quê hương;
thực hiện Chỉ thị 15 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam
ngày 28.8.2002; Thông tri số 18/TT -
TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An ngày 25.3.2003 về tăng cường, nâng cao
chất lượng nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương, thể theo nguyện vọng của
nhân dân xã Nghĩa Mai, ngày 05.06.2013, Ban Chấp hành Đảng bộ xã ra Quyết định số
04 QĐ/ĐU thành lập Ban chỉ đạo, Ban sưu tầm,biên soạn Lịch sử Đảng bộ xã Nghĩa
Mai.
Cuốn
sách “Lịch sử Đảng bộ xã Nghĩa Mai 1953 - 2015”ra đời, đáp ứng nhu cầu, nguyện
vọng của đông đảo nhân dân toàn xã, góp phần giáo dục truyền thống, tinh thần
yêu quê hương, đất nước cho các thế hệ con em xã nhà hôm nay và mai sau.
Thay mặt Đảng bộ xã Nghĩa Mai, chúng
tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo, giúp đỡ của Huyện ủy Nghĩa Đàn, các đồng
chí lãnh đạo Đảng, Chính quyền, Đoàn thể, ban ngành ở địa phương qua các thời
kỳ, nhất là với tinh thần trách nhiệm cao của Ban Chỉ đạo, Ban biên soạn.
Mặc dù
đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, nhưng do nguồn tư liệu và nhân
chứng lịch sử còn lại không còn nhiều nên cuốn “Lịch sử Đảng bộ xã Nghĩa Mai
1953 - 2015”chưa phản ánh thực sự đầy đủ bề dày lịch sử của xã và không tránh
khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong bạn đọc thông cảm, góp ý, bổ sung để
cuốn sách ngày càng hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau.
Xin
trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc!
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ NGHĨA MAI
Chương
1
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI NGHĨA
MAI
ĐIỀU
KIỆN TỰ NHIÊN
1. Vị trí địa lý, địa hình
Nghĩa
Mai là xã miền núi, nằm về phía Tây Bắc của huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An, cách
trung tâm huyện Nghĩa Đàn khoảng 28 km. Xã có các vị trí tiếp giáp như sau:
Phía Bắc giáp huyện Như Xuân (tỉnh Thanh Hoá), phía Nam giáp xã Nghĩa
Thịnh và Nghĩa Hưng, phía Đông giáp xã Nghĩa Hồng và Nghĩa Yên, phía Tây
giáp xã Tam Hợp, Đồng Hợp và Yên Hợp (huyện Quỳ Hợp) và xã Châu Bình (huyện
Quỳ Châu).
Xã có địa hình đồi núi tương đối phức tạp, độ
dốc lớn lại bị chia cắt bởi đồi núi cao, địa giới hành chính kéo dài tiếp giáp
với nhiều xã, đặc biệt là tiếp giáp với Quỳ Hợp và huyện Như Xuân của tỉnh Thanh
Hoá. Xã có tới 2/3 diện tích là đồi núi được phân thành 2 vùng rõ rệt:
Vùng núi cao: chủ yếu
tập trung ở phía Bắc và phía Tây của xã, nơi đây bao gồm những dãy núi cao và
rừng tự nhiên chiếm 70% diện tích.
Vùng
đồi, núi thấp: Phân bố tập trung ở phía Đông Nam với những ngọn đồi thấp và
ruộng bậc thang, đất chủ yếu là đất đỏ Bazan, phù hợp với các loại cây công
nghiệp dài ngày như: cà phê, cao su, cây ăn quả và một phần đất xám đen phù hợp
với các loại cây công nghiệp ngắn ngày.
2. Khí hậu
Khí hậu ở Nghĩa Mai cũng
giống như các xã khác ở huyện Nghĩa Đàn mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt
đới gió mùa và đặc điểm riêng của tiểu vùng khí hậu Bắc Trung Bộ. Mỗi năm có 2
mùa rõ rệt: Mùa nóng và mùa lạnh.
Mùa
nóng: thường bắt đầu từ
tháng 4 đến tháng 10. Đây là mùa có nhiệt độ cao, thường 29 - 320C
và có khi lên đến 41,10C vào tháng 6, 7, trung bình hàng năm là 250C.
Mùa này có gió mùa Tây Nam (gió Lào) thổi mạnh thành từng đợt gây cảm giác khô
và nóng. Đây cũng là mùa mưa lớn thường xuất hiện, lượng mưa bình quân hàng năm 1.815,8 mm. Cũng như các vùng khác
trong tỉnh, hàng năm Nghĩa Mai phải chịu 2 - 3 cơn bão mạnh. Bão thường kèm theo
mưa to, gây lụt lớn trên diện rộng, làm mất mùa, nhân dân đói kém. Gần đây, do
nạn chặt phá rừng bừa bãi, nhiều vùng núi phải chịu thêm những cơn lũ quyét với
sức tàn phá khủng khiếp, mùa hè nóng, nhiệt độ cao gây nên hiện tượng cháy
rừng.
Mùa lạnh: thường bắt
đầu vào tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Mùa này có gió Đông Bắc và Tây Bắc mang
theo nhiều hơi nóng và mưa phùn. Nhiệt độ trung bình từ 10 - 150C,
có khi xuống dưới 100C, gây khô hanh và rét, thậm chí có năm còn xảy
ra sương muối.
Với đặc điểm khí hậu nêu trên
việc sản xuất nông nghiệp rất khó khăn, cần bố trí cây trồng, cơ cấu thời vụ
thích hợp, tránh các yếu tố bất lợi, tăng cường bảo vệ đất đồng thời kết hợp sử
dụng các biện pháp tổng hợp để nâng cao độ phì nhiêu cho đất.
Diễn biến thời tiết - khí hậu luôn biến đổi, sự chênh lệch nhiệt độ giữa
hai mùa, tương đối lớn nên tương đối thuận lợi cho sản xuất như: mưa nhiều cũng
như độ ẩm cao đã giúp đất đai ở Nghĩa Mai được tưới nước và giữ ẩm lâu, dễ cày
xới và canh tác. Tuy nhiên, cũng gây nhiều khó khăn cho việc đi lại của nhân
dân và ảnh hưởng đến việc bố trí sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng, dẫn đến
tăng về chi phí sản xuất.
3. Tài nguyên
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá trong phát triển sản xuất nông
nghiệp nhất là đối với xã thuần nông như Nghĩa Mai. Tổng diện tích đất tự nhiên
của toàn xã là 11.830,40 ha bao gồm các loại đất chính: Đất đỏ Bazan, đất
Feralit trên phiến đá vôi, đất trắng
trên đất phiến sét, đất dốc tụ.
Sự phân bố thổ nhưỡng trên địa bàn xã không đều, đất lâm nghiệp chiếm trên 70% diện
tích tự nhiên, tập trung tại phía Bắc và phía Tây của xã.
Đất đỏ Bazan với diện tích khoảng
trên 300 ha, được dùng để trồng các loại cây công nghiệp dài ngày và các loại
cây họ đậu, ngô, lạc... Loại đất này chủ yếu tập trung ở các xóm vùng trung
tâm: xóm 3a, 3b, 3c, 5b, 6a, 6b, 7a, và xóm 7b. Đất màu vàng, nhiều sạn khó thâm canh chủ yếu là
trồng lúa, tập trung ở các xóm phía Đông Nam, nơi tiếp giáp với xã Nghĩa Hồng
bao gồm xóm 8, xóm 9. Đất dốc tụ có màu đen, có
diện tích khoảng 750 ha, chủ yếu là phân bố ở các xóm phía Tây Bắc.
Nghĩa Mai có hai nguồn nước chủ yếu là nguồn nước
mặt và nước ngầm. Nguồn nước mặt chủ
yếu là lượng nước sông Hiếu chảy qua
đoạn ranh giới giáp với huyện Quỳ Hợp và lượng nước từ khe Ang bắt nguồn từ
vùng núi Như Xuân - Thanh Hoá chạy dọc từ đầu nguồn đến cuối xã. Ngoài ra, xã
còn có các suối nhỏ và mó nước rải đều trong các khu dân cư cùng với 5 hồ đập
trên địa bàn đã cung cấp nước tưới khá phong phú cho cây trồng và phục vụ sinh
hoạt trên toàn xã. Cho đến nay, chưa có tài liệu nào đánh giá chính thức về
nguồn nước ngầm của xã, nguồn nước ngầm chủ yếu do người dân tự khai thác để
dùng trong sinh hoạt.
Theo số liệu điều tra khảo sát những năm gần đây, trên địa bàn xã Nghĩa Mai
nguồn tài nguyên khoáng sản không lớn, chủ yếu mỏ đá Bazan. Ngoài ra xã có
40,13 ha núi đá, là nguồn cung cấp vật liệu tại chỗ cho việc xây dựng các công
trình dân dụng trên địa bàn và các xã phụ cận.
Nghĩa Mai là
xã có diện tích rừng lớn nhất huyện Nghĩa Đàn. Rừng chủ yếu tập trung ở phía
Bắc và Tây Nam của xã, nơi tiếp giáp với huyện Như Xuân (Thanh Hoá) và huyện
Quỳ Hợp. Xã có 8.530,68 ha đất rừng (trong đó đất rừng sản xuất là 6.797,68 ha,
đất rừng phòng hộ là 1.733,00 ha) chiếm 72,11% tổng diện tích đất tự nhiên của
toàn xã, độ che phủ rừng đạt 73,3% bao gồm cả diện tích cây lâu năm. Trong
những năm gần đây, ngoài diện tích rừng sản xuất, xã còn quan tâm đến việc phát
triển trồng rừng, để đảm bảo môi trường sinh thái, mạch nước ngầm, giữ độ ẩm
cho cây trồng, phục vụ nước sản xuất và sinh hoạt.
II. ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI
1. Lịch sử địa danh
Trải qua quá trình lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước, địa giới hành chính của huyện Nghĩa Đàn cũng
như Nghĩa Mai có nhiều thay đổi với những tên gọi khác nhau.
Năm 111 trước công nguyên,
nhà Hán tiêu diệt thế lực cát cứ họ Triệu, thôn tính nước ta, chia Cửu Chân
thành 7 huyện. Nghĩa Đàn thuộc vùng Bắc - Tây Bắc của huyện Hàm Hoan. Đến thế
kỷ thứ III sau Công nguyên, nước ta thuộc nhà Ngô (tách phần phía Nam quận Cửu
Chân, ngang huyện Hàm Hoan, lập thành huyện Cửu Đức), Nghĩa Đàn vẫn thuộc huyện
Hàm Hoan - một trong 6 huyện của quận Cửu Đức.
Đến thời nhà Nguyễn, năm
Minh Mệnh thứ 12 (1831), Nghĩa Đàn thuộc đất Diễn Châu. Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840)
tổ chức hành chính Nghệ An được sắp xếp lại và lập thêm một số huyện mới. Phủ
Quỳ Châu trước đây có hai huyện Trung Sơn (Quế Phong) và Thúy Vân (tương đương
phần lớn đất Quỳ Châu và Quỳ Hợp ngày nay) được cắt một phần và lập nên huyện
Nghĩa Đường. Năm 1885, vì kị húy nên Đồng Khánh đổi tên Nghĩa Đường thành Nghĩa
Đàn. Tên huyện Nghĩa Đàn ra đời từ đó.
Huyện Nghĩa Đàn được thành
lập trên cơ sở trích đất 7 tổng của huyện Quỳnh Lưu (Hạ Bì, Nghĩa Hưng, Phước
Lộ, Chương Khê, Nhiêu Hạp, Thuần Can và Lâm La), một tổng của huyện Yên Thành
(Cự Lâm) và tổng Đan Lâm (đất Thúy Vân cũ), do phủ Quỳ Châu kiêm lý. Toàn phủ
có 17 tổng, 93 xã thôn thì Nghĩa Đàn có 8 tổng với 49 xã thôn, do đó Nghĩa Đàn được
xem là huyện có vị trí quan trọng của phủ Quỳ Châu lúc bấy giờ. Năm Tự Đức thứ
3 (1850), lỵ sở của phủ Quỳ Châu được dời từ xã Đông Lạc, huyện Thúy Vân đến
Nghĩa Hưng của huyện Nghĩa Đàn.
Khi thực dân pháp sang xâm
lược, ngày 22.10.1907, toàn quyền Đông Dương ra nghị định củng cố vùng Quỳ Châu
- Nghĩa Đàn, đặt tại Nghĩa Hưng một sở đại diện của chính quyền cấp tỉnh. Ngày
3.3.1930, toàn quyền Đông Dương ra nghị định tiếp theo nâng trạm Nghĩa Hưng lên
thành Sở đại lý phủ Qùy với trách nhiệm và quyền hạn hơn trước. Huyện Nghĩa Đàn
lúc này có 6 tổng với 58 xã thôn, có con dấu riêng và cơ cấu này tồn tại cho
đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Các làng: Làng Cáo, làng Xao, làng
Bái, làng Bui, làng Bàu, làng Nan (Nghĩa Mai) lúc này thuộc xã Tân Lập, tổng
Lâm La, huyện Nghĩa Đàn.
Trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1950, huyện Nghĩa Đàn gồm có 6 tổng với 58 xã
thôn, Nghĩa Mai thuộc tổng Lâm La. Năm 1947, Nghĩa Mai thuộc xã Tân Lập, tổng
Lâm La. Từ những năm 1950, Trung ương đã có hướng chia các xã lớn thành các xã
nhỏ cho phù hợp với năng lực lãnh đạo và tình hình xã hội lúc bấy giờ, nhưng vì
cuộc đấu tranh giảm tô chưa được thực hiện nên phải hoãn lại. Mãi đến năm 1953,
khi mà cuộc vận động giảm tô bước đầu được triển khai và có nhiều thắng lợi thì
chủ trương đó đã được thực hiện: các xã lớn được chia thành nhiều xã nhỏ phù
hợp với điều kiện địa lý, Nghĩa Mai là một trong số các xã được chia tách trong
thời điểm đó. Như vậy, năm 1953 Nghĩa Mai được tách từ xã Tân Lập cũ cùng với
các xã Nghĩa Minh, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Mai, Nghĩa Yên và có tên chính thức trong
bản đồ hành chính huyện Nghĩa Đàn. Những ngày đầu mới thành lập, Nghĩa Mai là
một xã đất rộng, người thưa, hầu hết cư dân đều là đồng bào dân tộc Thổ (chiếm
70%), dân tộc Thanh - Thái (chiếm 25%), dân tộc Kinh (chiếm 5%).
Giữa năm 1947, thực hiện chủ
trương tinh giảm cấp huyện, tăng cường cấp xã của Hội đồng Chính phủ và Ủy ban
kháng chiến hành chính Liên khu IV, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo hợp nhất những xã
nhỏ thành các xã lớn. Ở Nghĩa Đàn, 61 làng cũ được hợp nhất lại thành 16 xã mới
tùy theo điều kiện địa dư, kinh tế, phong tục và dân nguyện, xã kém với xã khá
để nâng đỡ lẫn nhau. Do vậy, làng Cáo, làng Xao, làng Bái, làng Bui, làng Bàu,
làng Nan…(Nghĩa Mai) cùng với các xã Lai Đáp, Lâm La và Tràng Trị thuộc xã Tân
Lập.
Tháng 2 năm
1953, thực hiện chủ trương của cấp trên, các xã lớn được tách thành những xã
nhỏ để phù hợp với tình hình mới. Do vậy, xã Tân Lập được tách ra thành 4 xã:
Nghĩa Yên, Nghĩa Minh, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Mai. Xã Nghĩa Mai chính thức ra đời
và tồn tại đến ngày nay.
Ngày 19.4.1963, Hội đồng
Chính phủ đã ra Quyết định 52/CP phê chuẩn việc chia lại địa giới các huyện Quỳ
Châu, Anh Sơn, Nghĩa Đàn thành 7 huyện mới, trong đó có huyện Nghĩa Đàn. Huyện
Nghĩa Đàn mới gồm 23 xã và thị trấn Thái Hòa.
Ngày 15.11.2007, Chính phủ
ban hành Quyết định số 164/2007/NĐ - CP điều chỉnh địa giới hành chính huyện
Nghĩa Đàn, thành lập thị xã Thái Hòa gồm thị trấn Thái Hòa và 7 xã vùng trung
tâm. Huyện Nghĩa Đàn còn lại 24 xã với 61.754 ha diện tích tự nhiên và 129.158
nhân khẩu.
Năm 2015, xã Nghĩa Mai có
1.596 hộ với 7.149 khẩu, phân bố trên 23 xóm bản. Đảng bộ có 29 chi bộ, trong
đó có 23 chi bộ thôn bản, 6 chi bộ cơ quan với 258 đảng viên.
2. Dân cư
Thành phần
dân cư Nghĩa Mai có ba dân tộc anh em sinh sống, người Kinh, Thổ, và Thái với
1.596 hộ với 7.149 khẩu phân bố trên 23 xóm bản.
Nguồn gốc
dân tộc Thổ ở Nghĩa Mai: theo các công trình nghiên cứu, từ
xa xưa thành phần dân tộc ở Nghĩa Mai chủ yếu là dân tộc Thổ Mọn. Họ đến định
cư cách đây từ 250 - 300 năm. Một bộ phận người Thổ di cư từ các địa phương
Thanh Hóa và các huyện miền xuôi lên (như Diễn Thọ (Diễn Châu), Quỳnh Lưu)….Đa
số bà con dân tộc Thổ ở Nghĩa Mai sinh sống ở các vùng rẫy dốc xen lẫn với
thung lũng tương đối bằng phằng và vùng giáp với huyện Như Xuân (Thanh Hóa).
Nghề truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số Nghĩa Mai là làm rẫy, khai thác
lâm - thổ sản. Ngoài việc trồng các loại cây lương thực như: lúa rẫy, sắn, ngô,
khoai, vừng…, bà con dân tộc Thổ còn trồng các loại cây gai để lấy sợi dệt thổ
cẩm, dệt các loại khăn, đan võng. Cho đến nay, các bản dân tộc Thổ ở Nghĩa Mai
cũng như ở các xã Nghĩa Yên, Nghĩa Minh, Nghĩa Lâm, Nghĩa Thịnh vẫn giữ được
bản sắc của mình. Bà con dân tộc Thổ sống xen kẽ cùng dân tộc Thanh, Kinh với
nhiều xã khác nhau trong huyện.
Nguồn gốc
dân tộc Thái (Thanh): dân tộc Thái ở Nghĩa Mai có nguồn
gốc từ Thanh Hóa di cư vào đầu thế kỷ thứ XVII bằng đường bộ (đường bộ theo
đường giáp của 2 tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, cụ thể là hai huyện Nghĩa Đàn và
Như Xuân, còn đường thủy thì qua Quỳ Châu theo sông Chàng, sông Hiếu xuôi về).
Dân tộc Thái ở Nghĩa Mai tập trung ở các làng: Se, Giàn, Bà con định cư ở dọc các khe suối, có kinh
nghiệm làm lúa nước, lúa nương, săn bắn và phát triển trồng dâu nuôi tằm, trồng
bông dệt vải, còn có nghề dệt thổ cẩm.
Dân
tộc Kinh: Từ năm 1965, cư dân ở các vùng miền xuôi đi xây dựng vùng kinh
tế mới ở Nghĩa Mai như: Hưng Nguyên, Diễn Châu, Quỳnh Lưu và một số huyện thuộc
tỉnh Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Một số người dân tộc Kinh bản địa thường gắn bó với
các dòng họ dân tộc Thổ, lấy vợ, lấy chồng người Thổ và trở thành người Thổ, đi
theo dòng họ vợ hoặc chồng. Phần lớn người Kinh lên định cư ở Nghĩa Mai là các
vùng miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới. Sau này, khi các nông trường quốc
doanh và các xí nghiệp sản xuất được thành lập, lực lượng người Kinh di cư lên
Nghĩa Mai càng đông đúc hơn.
Đầu năm 1965, thực hiện chủ trương của cấp
trên, bà con các xã miền xuôi di dân lên miền núi để xây dựng vùng kinh tế mới,
khai hoang, lập làng và xây dựng nông trang. Ở làng Cáo, làng Xao, làng Bui,
làng Bái có các hộ dân ở Diễn Châu lên Nghĩa Mai cùng với bà con người Thổ,
Thái - Thanh cùng nhau sinh sống và phát triển kinh tế.
Cuối
năm 1965 đầu năm 1966, bà con xã Hưng Tiến (Hưng Nguyên) lên Nghĩa Mai thành
lập Nông trang. Vì vậy, giai đoạn này Nghĩa Mai có thêm hai hợp tác xã nông
nghiệp: HTX Hưng Tiến 1 và HTX Hưng Tiến 2.
Cuối
năm 1967 đầu năm 1968, với khoảng 28 hộ dân xã Diễn Tháp (Diễn Châu) lên Nghĩa
Mai thành lập Nông trang và thành lập Hợp tác xã Nghĩa Châu. Đến tháng 4. 1971,
Hợp tác xã Nghĩa Châu giải thể.
Bước
sang năm 1976, sau khi có chủ trương sáp nhập hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, một
số hộ dân ở tỉnh Hà Tĩnh dắm dân tại làng Bái, làng Nạn và làng Cáo cùng nhau
đoàn kết, khai hoang và phát triển kinh tế. Ngoài ra, giai đoạn này còn có một
số hộ ở tỉnh Thanh Hóa cũng di dân ở Nghĩa Mai…Lúc này Nghĩa Mai có 9 xóm.
Năm 1980, số hộ dân của Hợp tác xã Hưng Tiến 1
được chia thành hai nhóm: một nửa lên Quỳ Hợp, một nửa chuyển về làng Lẻ của
làng Cáo thành lập nên xóm 10 (ngày nay). Giai đoạn năm 1980 - 1984, thực hiện
chủ trương khai hoang làm kinh tế mới. Một số hộ dân xã Quỳnh Yên (Quỳnh Lưu)
di dân lên làng Cáo phát triển kinh tế và thành lập xóm 12. Một số hộ dân người
Quỳnh Bảng lên làng Đồng Giàn và thành nên xóm 13.
Từ
năm 1990 - 1991, các xóm được chia thành các đội sản xuất. Cụ thể, xóm 1 chia thành
hai đội sản xuất 1a và 1b; xóm 2 thành 2a và 2b; xóm 3 thành 3a và 3b; xóm 4
thành 4a và 4b; xóm 5 thành 5a và 5b; xóm 7 thành 7a và 7b.
Năm 1995, Nghĩa Mai nhận thêm hai đội sản xuất
của Nông trường Cờ Đỏ là đội 3 và đội 7. Đội 3 nay là xóm 14 và đội 7
nay là xóm 15.
Như vậy,
trong những năm dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, với chính sách di dân hợp lý,
Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện hiệu quả công tác di dân từ các huyện miền
xuôi lên vùng núi. Điều này làm cho cơ cấu dân cư và chất lượng dân số ở đây có
những thay đổi đáng kể theo hướng từng bước được nâng cao và đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu về sự phát triển kinh tế - xã hội của xã. Và cũng từ đó
đến nay, nhiều biến động của quá trình phát triển dân cư phù hợp với tình hình
kinh tế, chính trị của đất nước đã từng bước tạo cho Nghĩa Mai những thay đổi
đáng kể trong cơ cấu cũng như chất lượng dân số theo hướng ngày càng phù hợp
hơn với yêu cầu. Những năm trở lại đây, cùng với sự hỗ trợ, quan tâm của Đảng,
Nhà nước, xã nhà đã có những bước đi đúng đắn, thích hợp, tạo ra nhiều thay đổi
căn bản và đang từng bước vươn lên trong xu thế công nghiệp hóa - hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn.
III. ĐỜI
SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN
1. Đời sống vật chất
1.1. Người Thổ
Tập quán canh
tác: Người Thổ chủ yếu trồng lúa rãy (rẫy) hay còn gọi là trồng lúa nương,
tức là phát, dọn đồi, nương để gieo lúa và trồng trỉa các cây lương thực. Bà
con người Thổ tiến hành thời vụ hàng năm theo âm lịch: từ tháng 2 đến tháng 3,
tháng 4 đốt và dọn sạch nương, tháng 5 gieo trỉa lúa và ngô. Lúa trên nương,
rẫy được thu hoạch bằng “nải cu cu” (loại hái nhắp có lưỡi dao dắt vào bụng cu
cu, một tay nắm bằng gỗ đẽo theo hình chim cu) bà con gọi là p,só. Ngay
nay, kỹ thuật canh tác lúa nước đã tiến bộ hơn, đồng bào canh tác mỗi năm 2 - 3
vụ lúa/năm. Lúa nước là nguồn lương thực chính của bà con nhưng đồng bào vẫn
còn duy trì trồng lúa nương cổ truyển. Ở nương rẫy, ngoài trồng lúa bà con còn
trồng các loại cây khác như: Kê, khoai, sắn... canh tác nương rẫy là tàn tích còn
lại theo lối du canh du cư của đồng bào trước đây, điều này đã ảnh hưởng không
nhỏ đến việc bảo vệ, khoanh nuôi và phát triển rừng, môi trường sống. Trong
những năm trở lại đây, nhờ được tuyên truyền, giáo dục bảo nên việc đốt rừng
làm nương rẫy của đồng bào đã phần nào được bãi bỏ. Cùng với nghề trồng lúa,
đồng bào Thổ còn trồng cây gai và phát triển nghề thủ công sản xuất các đồ dùng
bằng sợi gai để bán và đổi lấy thực phẩm, công cụ lao động.
Về chăn nuôi: Trước đây, đồng bào Thổ chăn nuôi gà,
lợn, vịt, trâu, bò là chủ yếu theo hình thức thả rông nên các vật nuôi hay phá
hoại mùa màng. Ngày nay, tập quán chăn nuôi cũ bà con người Thổ đã được thay
thế bằng hình thức chăn nuôi chuồng trại như người Kinh.
Trang phục: Trang
phục của người Thổ ở Nghĩa Mai khá đơn giản, ít kiểu cách, không hoa văn họa
tiết, mang nhiều nét đặc trưng sự pha trộn cải biên của y phục người Mường và
người Việt cổ. Đàn ông người Thổ thường mặc quần, áo bà ba, nhuộm nâu, trên đầu
quấn khăn đầu rìu, chân đi guốc mộc. Nhưng khi đi rừng thường mang dép da trâu để
phòng gai.
Phụ nữ người Thổ thường mặc áo cánh, nhuộm nâu, cổ
tròn hoặc trái tim, ống tay dài, chít chân lưng, xẻ hở nách, trong mặc áo lót
bằng yếm cánh dơi. Trên đầu phụ nữ Thổ đội khăn quấn đầu bằng vải nhuộm đen
hoặc nâu, khi có tang phụ nữ chít khăn màu trắng. Kiểu chít khăn là quấn tóc
vào trong khăn và quấn tròn trên đầu. Váy của phụ nữ Thổ dùng bằng vải đen hoặc
nâu sẫm, may tròn, phía trên lưng được xâu “chạc rút” hai bên hông thêu hai
đường chỉ từ lưng xuống gần gấu váy, kết thúc đường thêu bằng một hoa văn đồng
tiền hình vuông lệch về phía sau để phân biệt phía trước và phía sau của váy. Người
Thổ thường gọi là váy đồng tiền (vắn tôồng xiền). Khi mặc váy, phụ nữ người Thổ
thường quấn thắt lưng từ trước ra sau và được thắt nút ở phía sau lưng. Trong
những ngày lễ hội, tết hoặc ở những gia đình có điều kiện thường mặc áo năm
thân. Ngày nay, người Thổ thường ít dùng trang phục truyền thống, hầu hết đã
chuyển sang trang phục tân thời, hiện đại giống người Kinh.
Nhà ở: Nhà ở của người Thổ là nhà sàn,
gọi chung là nhà gác được làm từ tranh, tre, nứa. Nền nhà được lót từ “lá sàn”.
“Lá sàn” được làm từ thân cây tre, chẻ nhỏ ra thành từng thanh mỏng, cứ một cây
tre thì làm được một “lá sàn”. Nhà sàn được lót bằng những thanh tre nhỏ vừa
mát lại vừa bền. Người Thổ thường dựng nhà sàn ở những nơi khô ráo mục đích để
tránh thú dữ và độ ẩm. Cấu trúc của nhà sàn gồm cột, văng, vì và kèo nhà. Bao
gồm 6 vì cột, 5 gian được bố trí thông thoáng với ý nghĩa tiền khách, hậu chủ.
Người Thổ có tục làm “nhà làng”, theo đó hộ nào dựng
nhà thì nhân dân trong làng tập trung lại góp sức cùng gia chủ. Nhà nào được
xét làm nhà thì gia chủ phải chuẩn bị vật liệu chính như: cột, kèo, dầm nhà,
chọn ngày dựng, ngày lợp để xin phép làng. Trưởng làng có trách nhiệm phân bổ
cho các hộ góp tre, nứa, tranh và đóng góp các công: dựng nhà, lợp nhà, thưng
vách, lót sàn…. Sau khi hoàn thành gia chủ nộp cho làng một con lợn, gạo, rượu
để làng tổ chức ăn tại nhà chủ mừng nhà mới và đây cũng là dịp để gia chủ cảm
ơn bà con.
Cấu trúc của nhà sàn gồm các gian: Gian đầu tiên thường
gọi là gian trước (gian xái). Sàn của gian này một nửa được lót bằng “lá sàn”,
nửa còn lại để bắc cầu thang lên nhà, xung quanh gian này thường để thông
thoáng, không thưng vách.
Gian tiếp theo được gọi là nhà ngoài khoảng từ 2 - 3
gian. Gian này thường đặt bàn thờ, nơi tiếp khách và giường ngủ.
Gian tiếp theo gọi là nhà trong là ngăn sinh hoạt của
gia đình. Trong ngăn này thường thưng một cái buồng kín để cắt giữ những vật
dụng quý giá, hoặc làm phòng đón dâu.
Phần còn lại đặt một cái bếp chính giữa, 4 phía của
bếp được phân định như sau:
Phía trên (muỏng trêêng): giành cho ông bà
Phía ngoài (muổng ngoài): giành cho đàn ông
Phía sau (muổng sau): giành cho phụ nữ sinh đẻ
Phía dưới (muổng tín): dùng để sinh hoạt chung.
Đầu và cuối thân nhà người ta lót dâm kéo dài ra thành
cái chái (cái sạp). Nhà sàn của người Thổ gồm 2 chái: chái trước (sạp trước)
dùng để phơi lúa, chái sau (sạp sau) dùng để nước và vật dụng của nhà bếp.
Ở dưới gầm sàn (tức là dưới đất) gọi là tín sướng được
dùng để các vật dụng gia đình, làm chuồng để nuôi gia súc, gia cầm. Tục làm nhà
sàn và những hoa văn độc đáo của người Thổ cũng cho thấy đồng bào Thổ sử dụng
rìu và dao rất điêu luyện. Ngày nay, nhà sàn của người Thổ không còn nữa, thay
vào đó nhà đất lợp tranh hoặc nhà xây lợp ngói như nhà của người Kinh nhưng
dáng dấp bố trí và cách sinh hoạt trong nhà vẫn còn lưu lại nhiều nét của nhà
sàn.
1.2.
Người Thái (Thanh)
Tập quán canh
tác của người Thái cũng giống những người Tày, Nùng, Giao...ở vùng phía Bắc
nước ta. Đại bộ phận người Thái thường cư trú ở chân núi, dọc theo sông suối, trong
các thung lũng. Do điều kiện canh tác khó khăn, công cụ sản xuất đơn giản nên
từ xưa kia người Thái sống dựa vào sản xuất nông nghiệp theo hình thức trồng
trỉa lúa trên nương rẫy là chủ yếu. Dần dần họ biết tận dụng chỗ đất thấp, gần
sông suối để trồng lúa nước, vì thế từ lâu người Thái đã tích lũy được kinh
nghiệm làm lúa nước và làm nương rẫy. Tục ngữ Thái có câu:
Nặm hày thắng nắm
Đắm ná thắng phâu
(Tháng năm
trỉa lúa rẫy
Tháng sáu cấy lúa mùa)
Kết hợp với làm nương rẫy, làm ruộng còn có nghề rừng.
Rừng là nơi để người dân khai thác gỗ dựng nhà; mét, nứa, giang, mây để làm
dụng cụ sinh hoạt; rau rừng, săn bắt các loại thú, chim và các loại cá để bổ
sung thêm nguồn dinh dưỡng vào bữa ăn hàng ngày. Chăn nuôi gia súc, gia cầm
nhất là trâu, bò với hình thức chăn nuôi nửa tự nhiên, nửa chăm sóc theo từng
hộ gia đình khá phát triển, đây là nguồn thu nhập quan trọng nhằm cải thiện đời
sống và phục vụ cho các công việc lớn như: làm nhà, đám ma, cưới hỏi.
Người Thái sớm biết làm mương
dẫn nước từ suối vào ruộng để canh tác lúa nước mỗi năm 2 vụ trên ruộng bậc
thang. Trước đây, đất đồi thường để trồng, trỉa lúa, ngô, khoai, sắn... ngày
nay nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên nhiều giống mới được đưa vào
sử dụng như mía ngô, dưa hấu... cung cấp thêm nguyên liệu cho các nhà máy chế
biến, tạo thêm nguồn thu nhập cho đồng bào. Trước đây, cũng giống như người
Thổ, người Thái lấy nước khe và dùng ống suồng, nứa và tre để lấy nước sinh
hoạt. Ngày nay, các hộ gia đình người Thái đã biết tự đào giếng lấy nước sinh
hoạt. Việc đào giếng của các hộ gia đình vừa tiện lợi vừa đảm bảo vệ sinh sạch
sẽ so với dùng nước ở khe, suối.
Trang phục: Trang phục của phụ
nữ Thái gọn gàng và rất đẹp. Từ những sản phẩm tự mình làm ra, người Thái ở
Nghĩa Mai đã dệt ra những trang phục mang nét đặc trưng riêng của tổ tiên mình.
Nhìn bên ngoài có vẻ cầu kỳ phức tạp nhưng trang phục của người phụ nữ Thái
phản ánh một không gian rộng lớn về tài năng cũng như vẻ đẹp con người - vẻ đẹp
phản ánh qua thành quả lao động nghệ thuật hoàn chỉnh, hài hòa của đồng bào dân
tộc Thái. Trang phục truyền thống của người phụ nữ Thái gọi là “Sứa còm”, được
nhuộm đen bằng lá “Hóm”, một loại cây thân mềm như cây gai. Khuy áo bằng vải,
tà áo được thêu bằng hoa văn “Boocs Muan” - hoa ngâu ngũ sắc rực rỡ cùng chiếc
khăn Piêu được dệt từ sợi bông, dài 1,5 - 1,6 m, rộng 30 - 40 cm, với sự kết
hợp hài hòa của những đường nét hoa văn đặc sắc, đi kèm với trang phục là những
trang sức bằng bạc: vòng cổ, vòng tay, dây tà xích đeo một bên hông và cạp váy.
Nhà ở: người
Thái chủ yếu ở nhà sàn, chỉ một số ít là nhà lợp tranh, vách thưng tre nứa.
Ngôi nhà sàn đã trở thành niềm tự hào của người Thái. Nó vừa thể hiện đức tính
tỷ mỹ, công phu, chu đáo của người thợ vừa thể hiện thuần phong mỹ tục, sáng
tạo của đồng bào người Thái ở Nghĩa Mai. Tuy nhiên, do sự thay đổi của điều
kiện tự nhiên cộng với sự tiếp thu và giao hòa của đồng bào với người Kinh
trong sản xuất và sinh hoạt những nét cổ xưa về kinh tế, nghề nghiệp và ăn ở
của người Thái ở Nghĩa Mai ngày càng mai một. Những công cụ sản xuất mới,
phương thức mới, những ngôi nhà xây lợp ngói kiên cố, những vật dụng sinh hoạt
hiện đại của người Kinh dần được người
Thái tiếp thu và sử dụng rộng rãi trong cộng đồng dân tộc mình.
1.3. Người Kinh
Đồng bào Kinh sinh sống ở Nghĩa Mai chủ yếu là lớp dân
cư lên xây dựng vùng kinh tế mới. Đa số họ đến từ huyện Hưng Nguyên, Diễn Châu
và Quỳnh Lưu, Nghệ An và một số hộ ở Hà Tĩnh và tỉnh Thanh Hóa. Trước kia, cuộc
sống của nhiều hộ gia đình cũng chịu chung số phận bóc lột từ nhiều phía, hầu
hết họ phải sống trong những căn nhà tạm bợ và rách nát, họ phải chạy ăn từng
bữa. Bữa ăn của họ chủ yếu một phần cơm độn và hai, ba phần sắn, khoai mài.
Thức ăn chủ yếu của họ là cà, nhút và rau tự trồng như: rau lang, bầu bí, rau
dền… Thỉnh thoảng bắt được tôm, tép và cá ở suối, thú rừng khi đi săn hoặc những
khi gia đình có giỗ, tết thì bữa ăn của họ mới có thịt, cá. Đến mùa đông giá
rét, hầu hết người dân ở đây không mấy ai có được tấm áo lành lặn để mặc. Cảnh
đau ốm không thuốc thang, nhất là bệnh sốt rét đã làm cho nhiều người phải bỏ
mạng. Vì chưa đủ miếng ăn nên lúc bấy giờ người dân Nghĩa Mai không có điều
kiện quan tâm đến học hành. Vì thế, đa số người dân ở đây đều không biết chữ.
Mặc dù còn rất nghèo khổ
nhưng trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, bà con
các dân tộc Nghĩa Mai vẫn dành những hạt thóc quý giá cho bộ đội ngoài chiến
trường. Ngoài ra, các cuộc vận động giúp đỡ bộ đội và Chính phủ cũng được bà
con hăng hái tham gia đóng góp đầy đủ, góp phần cùng nhân dân nước làm nên đại
thắng mùa xuân năm 1975. Ngày nay, dưới chế độ mới, người Kinh cùng với các dân
tộc anh em Nghĩa Mai đang nổ lực xây dựng quê hương ngày thêm khởi sắc.
2. Đời sống
văn hóa tinh thần
Thành phần cư dân của
Nghĩa Mai bao gồm: dân tộc Thổ, Thái và Kinh, trong đó dân tộc Thổ và Kinh là
cơ bản. Mặc dù trải qua nhiều biến đổi thăng trầm của xã hội nhưng các dân tộc
ở Nghĩa Mai vẫn luôn ý thức giữ gìn những nét sinh hoạt văn hóa tinh thần mang
đậm bản sắc của dân tộc mình.
2.1. Đời sống tinh thần của
người Thổ
Người Thổ ở
Nghĩa Mai chủ yếu tập trung ở các làng: Cáo, Sứa, Nạn, Bui và Bái (nay là xóm 1a, 1b, 3a, 3b, 3c, 4a,4b,
5a, 5b, 6a, 6b, 7b). Theo số liệu thống kê năm 2015, người Thổ ở Nghĩa Mai có
khoảng 700 hộ với 3.500 nhân khẩu. Văn hóa tinh thần của đồng bào Thổ ở
Nghĩa Mai khá phong phú, đa dạng và độc đáo, thể hiện ở văn hóa cồng chiêng và
văn hóa dân gian.
Văn hóa dân
gian: Văn hóa dân gian của đồng bào Thổ ở Nghĩa Mai khá phong
phú, nổi bật có những biến thể trong mo “Đẻ đất, đẻ nước” nổi tiếng của dân tộc
Mường qua các bài “đắng” về sự tích con người, các nhân vật huyền thoại có công
tạo lập đất đai, làng, bản qua các câu chuyện kể của các già làng, trưởng bản. Ngoài
ra, đồng bào Thổ còn có kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ… Trong đó, có nhiều
câu ca dao tục ngữ giống với ca dao, tục ngữ Mường ở các vùng khác. Chẳng hạn:
Tí mô (đi đâu)
cho ngái cho xa
Trở về chốn cũ
làng ta cho gần
Tí no (đi đâu) mà Pội (vội) mà Pàng (vàng),
Mà pấp (vấp)
phải đá, mà quàng phải dây.
Nhạc điệu câu hát đối đáp
nam nữ của đồng bào Thổ Mọn ở Nghĩa Mai cũng giống giai điệu câu hát đối đáp
Mường. Các câu hát đối đáp thường gặp là các câu mượn từ ca dao (thể lục bát)
của người Kinh, hoặc được phát âm theo tiếng Thổ:
: Thấy
em anh cũng muốn yêu thương
Nước thời muốn chảy mà
mương chưa đào
Nữ: Anh vền (về) lo liệu thế nào
Để cho nước
chảy lọt vào bờ mương
Ngôn ngữ: Cộng đồng người Thổ ở Nghĩa Mai nói
một ngôn ngữ thống nhất (phương ngữ Mường) gần với ngôn ngữ người Thổ Mọn. Đây
là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường. Trong ngôn ngữ mà cộng đồng người
Thổ (Mọn) ở Nghĩa Mai nói có nhiều tiếng nói gần với tiếng Việt hiện đại.
Ví dụ: oóng đác
- tiếng Việt: uống nước
Ti úm - tiếng Việt: đi tắm
Ti
giộng - tiếng Việt: đi chơi
Ti cấn - tiếng Việt: đi cấy
vền - tiếng Việt: về
Ti
mần - tiếng Việt: đi làm
Ti mô nạ - tiếng Việt: đi đâu đấy.
Con kha - tiếng Việt: con gà
Dân tộc Thổ không có chữ viết riêng, các văn tự đều
được lưu giữ bằng chữ Hán Nôm, chữ Quốc ngữ. Nét đặc trưng riêng của tiếng Thổ
Nghĩa Mai là phát âm hơi nặng, ngắn hơn âm điệu của tiếng Thổ ở các xã khác
trong tổng Lâm La cũ. Một số từ vựng cũng có chỗ khác với tiếng Thổ trong vùng.
Nhưng sự khác nhau đó không đáng kể, chỉ góp phần thể hiện nét phong phú trong
cách biểu đạt từng nơi của đồng bào Thổ mà thôi.
Các
trò chơi dân gian và lễ hội: Vào các dịp lễ, tết, người Thổ ở Nghĩa Mai có
các trò chơi dân gian như: ném túm, ném còn, nhảy sạp… Trong đó, trò chơi ném
còn, nhảy sạp hầu hết phổ biến ở tất cả các đồng bào dân tộc ít người còn trò
chơi ném túm là nét đặc sắc riêng của đồng bào dân tộc Thổ ở Nghĩa Mai. Ném túm
là trò chơi dành các đôi nam nữ được làm bằng vải cũ có màu sắc và trú (vỏ
trấu) vấn tròn lại và có dây cầm để ném. Người con trai ném cho người con gái
và ngược lại. Đặc biệt, trò chơi ném túm (đúm) là nhịp cầu nối cho tình yêu đôi
lứa ở ở xã Nghĩa Mai (có những đôi trai gái, sau trò chơi ném túm họ đã nên
duyên vợ chồng, xây dựng cuộc sống gia đình ấm no, hạnh phúc). Ngoài ra, người
Thổ ở Nghĩa Mai cũng tổ chức các ngày lễ khác như: lễ hạ nêu (chọn ngày tốt để
xuống đồng, gieo hạt), lễ thường tân (lễ cúng cơm mới)…
Lễ hội cồng chiêng
Cồng chiêng là loại nhạc cụ quan trọng trong lễ hội
của đồng bào dân tộc trong đó có đồng bào dân tộc Thổ. Tiếng cồng chiêng gần
gũi, thân thiết đã đi sâu vào tâm hồn của đồng bào từ thủa lọt lòng, từ lúc mẹ
đưa nôi, mẹ địu trên lưng lên nương gieo hạt lúa, hạt bắp. Tiếng cồng chiêng ấy
đã có từ lâu đời và trở thành âm hưởng thiêng liêng của đồng bào Thổ. Những âm
thanh của tiếng cồng vang vọng, không giống loại nhạc cụ nào khác. Con em đồng
bào dân tộc Thổ trong xã, dù đi đâu, ở đâu hay làm gì đều nhớ về cội nguồn, nhớ
tiếng cồng chiêng nơi quê nhà như một cách nhớ về cội nguồn. Trai gái trong bản
ai cũng biết đánh chiêng, đánh cồng, tiếng cồng chiêng hòa cùng tiếng hát của
đôi trai gái trong làng vào những ngày lễ hội tạo nên một bản nhạc khác biệt
chỉ có ở Nghĩa Mai. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, ở nhiều vùng
cao nét đặc trưng ấy đã bị mai một nhưng ở Nghĩa Mai vẫn được bảo tồn và phát
triển. Kết cấu của một bộ cồng chiêng bao gồm: Cồng, trống, kèn.
Tục ăn họ và tục đi họ: Ngay sau tết
Nguyên Đán, đồng bào người Thổ thường
có tục lễ đi họ. Mỗi cặp vợ chồng phải
có 4 họ tham gia: Họ của chồng - họ nội, đây là họ chính; họ của bố vợ - họ
ngoại; họ của mẹ chồng - họ bà nội; họ của mẹ vợ - họ bà ngoại. Ngoài ra còn có
các họ nhánh, họ cành (các họ xa).
Người đứng ra tổ chức họp họ là các đầu đinh, gọi là
các đầu trai, con trai, cháu trai của họ nội. Các đầu trai có nghĩa vụ phân
công trách nhiệm đóng góp các khoản như: tiền, gạo, rượu ngang nhau và luân
phiên nhau. Anh trai cả hoặc cháu đích tôn là chủ nhà để tổ chức họp họ gọi là
nhà trùm họ. Còn lại các cô, các rể, con gái đóng góp tùy vào lòng hảo tâm.
Thông qua họp họ, mọi người thăm hỏi và gắn bó thân tình với nhau hơn; thanh
niên nam, nữ biết nhau qua buổi họp họ để tránh được kết hôn trùng huyết thống
đồng thời tạo sự gắn kết trong cộng đồng dân tộc Thổ. Ngày nay, tục ăn họ của đồng bào Thổ vẫn được
gìn giữ và phát huy nhưng được cải tiến và tổ chức gọn nhẹ hơn. Đặc biệt, hàng
năm các họ còn xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài, cùng nhau thực hiện tốt chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng gia đình văn hóa và xây dựng
nông thôn mới ngày càng khởi sắc.
Tục thăm mộng: Với
quan niệm “bố mẹ thiếp như bố mẹ chàng”, người Thổ rất tôn trọng ông bà ngoại.
Tục thăm mộng tức là tục thăm ông bà bên ngoại. Tục thăm mộng thường được tổ
chức vào mồng 2 tết Nguyên đán hoặc rằm tháng Bảy. Từ sau Cách mạng tháng Tám
thành công, người Thổ chọn ngày ngày quốc khánh 2.9 làm ngày đi thăm mộng. Tục
thăm mộng vào các ngày lễ, tết của người Thổ là nét đẹp văn hóa, thể hiện chữ
hiếu của con cái với các bậc sinh thành. Đặc biệt, sự bình đẳng nam nữ cũng như
trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ cả đôi bên.
Hôn nhân: Trước đây, hôn nhân của
người Thổ chủ yếu do cha mẹ sắp đặt “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Hôn nhân của
người Thổ được tiến hành theo 5 bước: lễ dạm ngõ (gồm rượu và trù ( trầu); trù
hoa (gồm 4 bánh tét, hai chai rượu và trù, cau); trù hỏi (6 cái bánh tét, 3
chai rược và trù cau); lễ cưới (một con lợn, 1 con trâu, 4 thúng cơm nếp, 8
chai rượu và một bộ quần áo cho mẹ vợ); lễ lại mặt. Khi tiến hành lễ cưới, nhà
trai vừa phải lo tổ chức đám cưới, mừng dâu, đồng thời phải đưa lợn, xôi, rượu
đến nhà gái tự bày mâm cho bên họ gái. Quá trình tiến hành cuộc hôn nhân bên
nhà trai phải mượn một ông Mối là người có uy tín. Khi xong việc, nhà trai phải
có lễ cảm ơn ông mối vì “một bên được dâu, một bên được rể, ông mối nhệ nhãi mồ
hôi”. Trước khi cưới, người Thổ còn có tục làm rể. Thời gian từ khi ăn hỏi đến
khi cưới khoảng 1 năm, trong thời gian này, nhà trai phải cho con trai đi làm
rể tức là sang nhà gái để ăn ở và để đôi bạn tình có điều kiện tìm hiểu nhau, hai
gia đình qua lại, thăm hỏi và xích lại gần nhau hơn. Đặc biệt đây là thời gian
để thử thách tài năng của chú rể, tạo nên sự yêu thương gắn kết của con rể với
bố mẹ vợ.
Nhưng tục lệ cũng có những quy định khắt khe như chửa
hoang bị xử phạt khá nặng nề. Nhà nào có con gái chửa hoang đều bị phạt 1 thúng
gạo nếp, một con lợn, tổ chức cho làng ăn, bắt bố, mẹ và con gái phải phục vụ. Hiện
nay, do điều kiện sống xen kẽ với người Kinh, các cặp vợ chồng không đồng tộc
ngày càng nhiều. Trai, gái Thổ Mọn, ở Nghĩa Mai được tự do tìm hiểu. Vào dịp
hội hè, tết đến, trai gái có thể “ngủ mái”, một trai có thể nằm chuyện trò với
hai, ba cô gái và ngược lại. Những luật, tục cưới hỏi với nhiều lễ nghi, tập
tục rườm rà, áp đặt, không phù hợp đang dần được thay thế bằng tổ chức cưới hỏi
theo nếp sống mới.
Tang lễ: Trước đây, tang lễ của
đồng bào Thổ cũng không kém phần phức tạp và tốn kém. Thông thường, người Thổ ở
Nghĩa Mai hay giữ xác người đã mất ở lại lâu từ 7- 10 ngày, có khi lên tới 3
tháng. Tang chủ phải mổ lợn, vật trâu, nấu cơm thiết đãi mọi người đến viếng,
đến chơi trong suốt thời gian tang lễ. Tục quàn xác lâu ngày giờ đây đã hoàn
toàn chấm dứt, lễ ăn uống linh đình cũng giảm đi nhưng tình làng nghĩa xóm
không vì thế mà bớt phần sâu nặng. Ngày nay, theo nếp sống mới, đám tang của
đồng bào Thổ đã đơn giản hơn nhiều, xác người đã mất không để quá 24 giờ.
. Đời
sống tinh thần của người Thái
Người Thái ở Nghĩa Mai có nguồn gốc từ Thanh Hóa rồi
định cư tại đây. Tín ngưỡng: là cư dân nông nghiệp tín ngưỡng của người Thái ở
Nghĩa Mai chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực và vạn vật hữu linh. Họ cho
rằng “Mường then” (Mường trời) là nơi “Pú páu” (tổ tiên) của họ được sinh ra và
cho đầu thai xuống trần gian làm người nên khi con người chết đi là trở về với
tổ tiên. Do vậy, họ được tổ chức ma chay và được các ông Mo đưa tiễn về “Pú
páu”, về với Mường then. Người Thái còn quan niệm, mỗi một con người có 80 cái
hồn (phi vẳn), hồn của con người có ở tất cả các bộ phận của cơ thể. Từ quan
niệm đó, tục lệ “gọi vía”, “buộc vía” ở người Thái xuất hiện lâu đời mỗi khi ốm
đau.
Ngày tết, người Thái ở đây
còn tổ chức lễ hội “Sấm ra”, khi có tiếng sấm đầu mùa xuất hiện. Lễ hội này thể
hiện quan niệm biết ơn trời đất, ước mong cho mùa màng bội thu, cuộc sống no
đủ. Lễ hội “Hoa nở”, tổ chức vào ngày 15 đến 25 tháng 5 (âm lịch) cũng giống
như lễ Kỳ yên - Kỳ phúc của người Kinh. Lễ hội “Xăng khan”, tổ chức vào tháng
11 (âm lịch) lúc thu hoạch.
Ngoài ra, người Thái còn việc nhau trong hoạn nạn khó
khăn như: khi thiếu ăn có thể đến nhà họ hàng, người trong làng bản để xin lúa
gạo, xin các con vật về nuôi. Nếu như có người đến xin thì đó chính là niềm vui
của cả gia đình. Có thể một thời gian sau, gia đình được xin cũng sẽ thiếu,
nhưng họ rất vui vẻ cho người đến xin. Đây là một nét đẹp trong đời sống văn
hóa mang đậm tính nhân văn của người Thái.
Ngoài những tín ngưỡng, phong
tục trên, người Thái ở Nghĩa Mai vẫn còn lưu giữ tập quán uống nước chè xanh,
uống rượu cần. Rượu cần là loại rượu truyền thống của người Thái. Trong các
ngày lễ, ngày cưới hỏi, liên hoan, rượu cần được dùng để mọi người cùng quây
quần bên nhau vừa thưởng thức vị men ngọt ngào của núi rừng và cũng là dịp bày tỏ
lòng mến khách.
Văn hóa dân
gian: văn hóa nghệ thuật của người Thái ở Nghĩa Mai cũng phong phú, vừa đa
dạng về thể loại, vừa giàu chất trữ tình. Về thể loại có Nhuôn, Khắp, Suốt,
Ví...(giống như các làn điệu dân ca của người Kinh) - phổ biến nhất là bài
“khắp”: thường được dùng trong ngày hội, ngày tết, ngày cưới. Đó là bài hát ca
ngợi hạnh phúc của lứa đôi và cũng là tiếng hát giao duyên của trai tài gái
sắc, là sự mở đầu cho tình yêu tuổi trẻ. Các trò chơi dân gian trong ngày lễ
tết như: chơi đu, kéo co, ném còn, nhảy sạp, bắn cung, khắp luống... được nhiều
người tham gia hưởng ứng. Thanh niên Thái còn rất thích trò chơi ném còn. Ném
còn không những là trò chơi thanh tao mà còn là dịp để cho trai gái tự do tìm
hiểu yêu đương.
Những trò chơi dân gian, truyền
thống được người Thái gìn giữ, phát huy, kết hợp với việc tiếp thu các trò chơi
thể thao hiện đại như: bóng chuyền, bóng đá… tạo nên không khí vui tươi nhộn
nhịp các ngày lễ, góp phần xây dựng cuộc sống nhân dân Nghĩa Mai ngày càng
phong phú.
2.3.
Đời sống văn hóa tinh thần của người Kinh
Nhìn chung, các phong tục tập quán của
người Kinh ở Nghĩa Mai không khác với phong tục tập quán với đồng bào Kinh trên
lãnh thổ Việt .
Đó là tục ăn trầu, uống nước chè xanh, tổ chức các trò chơi dân gian như đánh
đu, kéo co…
Dưới thời Pháp thuộc, với
chính sách ngu dân, người dân không được học hành, lại bị bóc lột về vật chất
và sức lao động, tệ nạn xã hội lan tràn khắp thôn xóm, làng bản.
Sau thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám năm 1945, cuộc sống của đồng bào các dân tộc nơi đây tuy còn gặp rất
nhiều khó khăn nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng, mọi
người dân Nghĩa Mai đã cùng với nhân dân cả nước hăng hái tham gia góp sức, góp
của xây dựng cuộc sống vật chất cũng như tinh thần ngay càng tiến bộ, vừa phong
phú vừa đa dạng, mang đậm bản sắc dân tộc.
Quá trình cộng cư, sinh tụ
đông đảo của con người kéo theo sự đa dạng về văn hóa: lối sống, ứng xử, nếp
nghĩ, tập tục, phương thức canh tác... Tính hỗn dung đan xen trong văn hóa ở đây
gặp nhau ở điểm chung là tình yêu quê hương, gắn bó với vùng đất mới, chung sức
đồng lòng xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Điều này, góp phần vào việc
xây dựng nền văn hóa Nghĩa Đàn nói chung và Nghĩa Mai nói riêng đa dạng trong
tính thống nhất chung của cộng đồng cư dân xứ Nghệ xưa và nay.
Người dân Nghĩa Mai từ xưa
đến nay rất chuộng ca hát, văn thơ, hò vè. Trước đây, Nghĩa Mai cũng có một đội
văn nghệ được trang bị đầy đủ nhạc cụ, trang phục... Trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động văn nghệ tập trung phản ánh
không khí thi đua lao động sản xuất và chiến đấu, ”tiếng hát át tiếng bom”...
trở thành động lực xây dựng quê hương, đất nước.
Mặc dù năm 1953, Nghĩa Mai
mới được thành lập nhưng trước đó mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và cảnh quan của quê hương đều được chuyển tải vào thơ, nhạc. Xã đã thành
lập Câu lạc bộ thơ ca người cao tuổi. Đội văn nghệ công đoàn cơ sở hoạt động
đều đặn, đem lời ca tiếng hát phục vụ lao động sản xuất. Các hoạt động văn hóa
- văn nghệ, thể dục - thể thao trong những năm gần đây được Đảng ủy, chính
quyền địa phương quan tâm tạo điều kiện về nhiều mặt và thu được kết quả cao
trong các kỳ thi đấu, hội diễn ở huyện. Nhìn chung, từ xa xưa trên vùng đất
Nghĩa Mai đã có con người đến đây sinh sống, lập nghiệp nhưng phải đến khi thực dân Pháp khai
thác vùng Phủ Quỳ thì dân cư ở đây mới tăng dần theo thời gian. Lịch sử đấu
tranh chống giặc ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên của các thế hệ cư dân và
các thế hệ cán bộ công nhân nông trường đã viết nên truyền thống lịch sử văn
hóa của Nghĩa Mai hôm nay.
3. Giáo dục,
y tế
Về giáo
dục: Nhận thức được ý
nghĩa trong công tác chăm lo, bồi dưỡng, đào tạo và phát triển nhân tài cho thế
hệ sau là một trong những nội dung quan trọng trong sự nghiệp phát triển của
quê hương. Vì vậy, công tác giáo dục ở Nghĩa Mai luôn được Đảng ủy, chính quyền
và nhân dân quan tâm, chú trọng.
Trường mầm
non Nghĩa Mai được thành lập từ năm 1980 lúc này với tên gọi là Trường mẫu giáo
Nghĩa Mai. Giai đoạn này, trường chỉ có 1 lớp học với 18 cháu, chủ yếu học ở
hội quán của xóm 3a. Từ năm 1980 đến 1985, trường có 23 giáo viên, 20 lớp với
200 học sinh. Giai đoạn từ năm 1986 - 2011, trường có 7 điểm, 11 lớp, 20 giáo
viên với 320 học sinh. Từ năm 2004 đến 2009, trường luôn đạt danh hiệu “Tập thể
lao động tiên tiến”. Năm học 2011 - 2012, Trường mầm non Nghĩa Mai có 20 cán bộ
giáo viên, 11 nhóm lớp với 306 học sinh. Giai đoạn này, tập thể trường đạt danh
hiệu khá. Năm học 2013 - 2014, trường có 18 giáo viên, với 374 cháu được chia
làm 13 lớp. Giai đoạn này, trường đạt danh hiệu “Tập thể lao động tiên tiến”.
Năm học 2014 - 2015, trường có 23 giáo viên, 13 nhóm lớp với 382 cháu. Năm học
này trường đạt danh hiệu…..
Trường
tiểu học Nghĩa Mai được thành lập năm 1959 tại làng Đồn, khi mới thành lập
trường có 2 lớp, các lớp học lúc bấy giờ chủ yếu là nhà tranh và lá nứa. Giai
đoạn này, huyện Nghĩa Đàn đã cử giáo viên về dạy học cho các cháu. Vì trường
còn thiếu lớp học nên một số cháu phải sang trường của các xã lân cận (Nghĩa
Yên, Nghĩa Thịnh) để học. Năm học 1960 - 1961, trường được dựng thêm 4 lớp và 1
văn phòng. Bước sang năm học 1961- 1962, do hoàn cảnh của chiến tranh chống Mỹ
cứu nước, trường cấp 1 Nghĩa Mai được tách thành hai trường Nghĩa Mai 1 tại xóm
làng Nạn và Nghĩa Mai 2. Đến năm 1976 - 1977, sau ngày hòa bình lập lại, hai
trường cấp 1 Nghĩa Mai 1 và Nghĩa Mai 2 nhập lại thành một trường cấp 1 Nghĩa
Mai đóng tại nhà anh Thủy Hậu (xóm 14 hiện nay). Tháng 8.1998, trường cấp 1 Nghĩa Mai được tách thành hai trường:
Trường tiểu học Nghĩa Mai A và Trường Tiểu học Nghĩa Mai B. Trải qua quá trình
phát triển, được sự quan tâm đầu tư, giúp đỡ của cấp trên, tập thể cán bộ, giáo
viên, công nhân viên cùng với sự nỗ lực của các thế hệ học sinh đã từng bước vượt
qua khó khăn xây dựng trường ngày càng khang trang sạch đẹp, thực hiện khẩu
hiệu “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Đặc biệt, từ năm 1999 đến nay,
Chi bộ trường Tiểu học Nghĩa Mai A đều đạt “Chi bộ trong sạch vững mạnh” và
“trong sạch vững mạnh tiêu biểu”. Với những thành tích đó, ngày 06.06.2006, Trường
Tiểu học Nghĩa Mai A vinh dự được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh công nhận danh
hiệu “Trường chuẩn Quốc gia mức độ I”.
Trường
Tiều học Nghĩa Mai B được tách ra từ trường cấp 1 Nghĩa Mai tháng 8.1998. Lúc
này, trường có 1 cơ sở chính gồm 19 lớp, 2 phòng cấp 4, 5 phòng học tranh tre
và có 2 điểm lẻ ở làng Se và làng Quỳnh Bảng với 22 giáo viên và 426 học sinh.
Từ năm 2005 - 2010, điểm chính của trường có 8 phòng nhà cấp 4; 2 nhà tranh tre
tại hai vùng lẻ Làng Se và Quỳnh Bảng với 17 lớp và 415 học sinh. Từ năm 2010 -
2014, trường có 12 phòng cấp 4 và 8 phòng học hai tầng. Những năm trở lại đây,
cùng với sự quan tâm đầu tư của các cấp chính quyền và sự nỗ lực vươn lên của
tập thể cán bộ công nhân viên, trường Tiểu học Nghĩa Mai B đã có nhiều thành
tích đáng ghi nhận, nhiều năm liền đạt trường tiên tiến cấp huyện, giáo viên
giỏi cấp huyện gồm 6 đồng chí, học sinh giỏi cấp huyện đạt 12 em (năm học 2013
- 2014).
Trường cấp
2 Nghĩa Mai được thành lập năm 1965. Giai đoạn này trường đóng tại làng Cáo với
1 lớp 5 và 58 học sinh. Năm học 1966 - 1967, trường có thêm 2 lớp (1 lớp 5 và 1
lớp 6) với tổng số 120 em học sinh. Lúc này, do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh
chống Mỹ cứu nước, trường chuyển xuống làng Nạn. Năm học 1967 - 1968, do chiến
tranh phá hoại miền Bắc, trường phải chuyển vào hang Cọng, đào hào, đắp lũy để
dạy và học. Lúc này, trường có 3 lớp (lớp 5, 6, 7) với tổng số 177 học sinh.
Bước sang năm học 1968 - 1969, trường có 4 lớp (lớp 5A, 5B, 6, 7) với tổng số
học sinh là 219 em. Năm học 1970 - 1971, trường được chuyển ra xóm 3A tại địa
điểm UBND xã ngày nay. Năm học 1972 - 1973, trường có 8 giáo viên, 6 lớp với
173 em học sinh. Năm học 1973 - 1974, trường có 8 giáo viên, 6 lớp với 191 học
sinh. Năm học 1974 - 1975, trường có 8 giáo viên, 6 lớp và 175 học sinh. Năm học 1990 - 1991, trường được
sáp nhập cùng với trường cấp 1 thành trường cấp 1,2 Nghĩa Mai. Năm học 1991 -
1996, trường cấp 2 Nghĩa Mai sáp nhập cùng với trường cấp 2 Nghĩa Thịnh. Năm
học 1995 - 1996, Trường cấp 2 Nghĩa Thịnh được tách thành 2 trường: Trường THCS
Nghĩa Mai và Trường THCS Nghĩa Thịnh. Từ
năm học 1996 - 2004, trường đóng tại trường Tiểu học Nghĩa Mai A hiện nay.
Trường có 31 giáo viên với 16 lớp gồm 562 học sinh. Từ năm 2004 - 2011, trường
chuyển về xóm 3C hiện nay. Năm 2013, trường có tên là Trường phổ thông dân tộc
bán trú trung học cơ sở Nghĩa Mai. Trong thời gian này, trường đang xây dựng
trường chuẩn Quốc gia giai đoạn I. Ngoài hệ thống trường phổ thông thông thì hệ
bổ túc văn hóa vẫn được duy trì nhằm bổ
túc kiến thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo trong xã, nhất là trong những năm đầu
đi lên hợp tác xã. Hệ thống bổ túc văn hóa đã thực sự góp phần đưa mặt bằng dân
trí của xã nhà lên một bước đáng kể.
Về y tế: Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân được quan tâm đúng
mức nên việc phòng trị bệnh đạt kết quả tốt. Từ đầu năm 1957, tỉnh có chủ
trương mỗi hợp tác xã được cử một người đi học y tá (vệ sinh viên). Thực hiện chủ
trương trên, giữa năm 1958, Nghĩa Mai có 6 người đại diện cho 6 hợp tác xã đi
học y tá tại Nhà thờ cầu Rầm (Hưng Nguyên), đó là các hợp tác xã Giàn Thành,
Cát Long, Bình Long, Lai Châu, Bui Thai, Yên Bái. Đến năm 1960, trạm y tế xã
mới chính thức thành lập. Lúc này trạm có 2 cán bộ y tế và 6 vệ sinh viên. Giai
đoạn này, trạm y tế chủ yế dùng các loại thuốc Nam để chữa bệnh cho nhân dân
đồng thời tuyên truyền cho bà con giữ gìn vệ sinh với khẩu hiệu “sạch làng tốt
ruộng”, dời chuồng trại ra khỏi nhà sàn, khi ốm đau thì phải dùng thuốc để chữa
giảm bớt các hủ tục lạc hậu như cúng bái, để xác người chết lâu trong nhà, vận
động nhân dân ăn chín, uống sôi và tiến hành cấp phát thuốc phòng chống sốt rét
cho nhân dân. Trong những năm chiến tranh chống Mỹ cứu nước thắng lợi, Nghĩa
Mai đã rất chú ý đến việc cử người đi học chuyên môn về ngành y để phục vụ cho
bà con xã nhà, nhất là thời kỳ đổi mới. Công tác y tế của xã nhà kết hợp được
cả Đông y và Tây y nên đã bước đầu làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu
cho nhân dân. Tháng 4 năm 2005, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, chính
quyền địa phương với nguồn đầu tư từ dự án XIPIRIP, trạm y tế Nghĩa Mai được
xây dựng khang trang, sạch đẹp với 1 nhà cấp 4 có 8 phòng làm việc gồm: Phòng y
vụ, phòng khám bệnh và cấp thuốc và 5 phòng dành cho bệnh nhân với 5 cán bộ
biên chế và 23/23 y tá thôn bản đang tích cực góp sức cùng hệ thống y tế của
huyện hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Tháng
9.2009, trạm y tế xã đã được cấp trên công nhận xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế.
Tháng 11.2011, xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế theo tiêu chí mới.
IV. TRUYỀN
THỐNG VĂN HÓA, CÁCH MẠNG Ở NGHĨA MAI TRƯỚC KHI THÀNH LẬP XÃ
Truyền thống lịch sử văn hóa
Nghĩa Mai luôn gắn liền với những thăng trầm của đất nước và quê hương Nghĩa
Đàn.
Năm 179 TCN, Triệu Đà đem
quân xâm lược nước Âu Lạc, chia nước ta thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân.
Nghĩa Đàn nằm ở trung tâm quận Cửu Chân. Năm 111 TCN, nhà Hán tiêu diệt Triệu
Đà, chia Cửu Chân thành 7 huyện, Nghĩa Đàn thuộc vùng Bắc - Tây Bắc huyện Hàm
Hoan... Đến năm 627, nhà Đường chia vùng Nghệ Tĩnh thành hai châu là Hoan Châu
và Diễn Châu, Nghĩa Đàn thuộc lãnh thổ của Diễn Châu.
Năm 1041, Thái tử Lý Nhật
Quang làm Tri châu Nghệ An. Một trong những đóng góp nổi bật của ông là khai
phá, tu sửa, mở rộng con đường thượng đạo ở vùng miền núi xứ Nghệ... bắt đầu từ
Giang Sơn (Đô Lương) đi qua địa phận Tân Kỳ, Nghĩa Đàn đến khe Bò Lăn sang Như
Xuân (Thanh Hóa)... Hiện nay, trên vùng đất Đô Lương, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ và một
số địa phương khác ở Nghệ An vẫn còn nhiều đền thờ Lý Nhật Quang.
Đến thời Trần - Hồ, Nghĩa
Đàn thuộc vùng đất của huyện Quỳnh Lâm và huyện Thiên Động. Từ thời Hậu Lê đến
thời Nguyễn, vùng đất này cơ bản thuộc huyện Quỳnh Lưu. Năm 1840, huyện Nghĩa
Đường được thành lập nhưng vì kỵ húy vua Đồng Khánh (Nguyễn Phúc Đường) nên năm
1886 đổi thành huyện Nghĩa Đàn. Cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945,
Nghĩa Đàn gồm có 6 tổng: Lâm La, Nghĩa Hưng, Thạch Khê, Hạ Sưu, Thái Thịnh và
Cự Lâm.
Trong các cuộc kháng chiến
chống kẻ thù xâm lược, nhân dân Nghĩa Đàn nói chung và nhân dân Nghĩa Mai nói riêng
tích cực tham gia, đấu tranh bảo vệ nền văn hóa. Từ thế kỷ XVI trở đi, chế độ
phong kiến trên đà suy tàn. Đến năm 1858, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, khởi
nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, phong trào Cần Vương chống Pháp bùng nổ. Trong
cuộc khởi nghĩa chống chế độ phong kiến và thực dân, nhân dân Nghĩa Đàn sôi nổi
tham gia hưởng ứng, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật và khởi nghĩa
Tây Sơn. Cho đến khi người con ưu tú của dân tộc - Nguyễn Ái Quốc tìm ra con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1920) và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(1930) thì phong trào cách mạng ở vùng đất này có điều kiện phát triển và trở
nên sôi sục hơn. Ngày 03.02.1930, tại Hương Cảng - Trung Quốc, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc đã thống nhất 3 tổ chức cách mạng: Đông Dương Cộng sản đảng, An Nam
Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành một tổ chức thống nhất lấy
tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Sự kiện thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh
dấu một mốc son mới cho phong trào cách mạng của nhân dân cả nước nói chung cũng
như nhân dân huyện Nghĩa Đàn nói riêng. Đây là sự kiện trọng đại của dân tộc
trong những năm 30 của thế kỷ XX.
Sau khi Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời, cuối tháng 2.1930, Tỉnh ủy Nghệ An cũng được thành lập.
Trước tình hình đó, vào đầu tháng 10.1930, đồng chí Võ Nguyên Hiến tuyên
bố thành lập chi bộ ghép gồm các đảng viên của hai xã Thọ Lộc và Cự Lâm tại
hang Rú Ấm (Nghĩa Khánh). Đây là hai chi bộ Đảng tiền thân của Đảng bộ Nghĩa
Đàn.
Đầu
tháng 1.1931, thực hiện chủ trương của cấp trên, chi bộ ghép hai xã Cự Lâm và
Thọ Lộc, tiến hành thành lập chi bộ riêng, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Phan
Đình Lại và Võ Thược. Chi bộ Cự Lâm có 6 đảng viên, trong đó:
1. Đồng chí Nguyễn Đình Thạc - Bí
thư
2. Đồng chí Nguyễn Chiểu - Phó Bí
thư
3. Đồng chí Nguyễn Hoát - Thư ký
Giữa năm 1934, theo sự phân công của Tỉnh
ủy Nghệ An, đồng chí Võ Nguyên Hiến đã lên kiểm tra tình hình ở Nghĩa Đàn và
chỉ đạo kiện toàn lại Huyện ủy. Hội nghị được tổ chức ở Thọ Lộc, do đồng chí Võ
Nguyên Hiến chủ trì. Hội nghị đã nhất trí thành lập Ban Chấp hành Đảng ủy huyện
Nghĩa Đàn, gồm:
1. Đồng chí Phan Đình Lại - Bí thư - phụ
trách chung
2.
Đồng chí Nguyễn Đình Thạc - Phó Bí thư, phụ trách (Cự Lâm, Vĩnh Lại)
3. Đồng chí lại Văn Bút - Ủy viên, phụ trách
(Yên Hòa, Tri Chỉ)
4.
Đồng chí Võ Thược - Ủy viên, phụ trách giao thông liên lạc
5.
Đồng chí Trần Mật - Ủy viên, phụ trách Sen (Tri Lễ), đồn điền Xếp Chúc, Na Tra,
Rong, Vực Lồ.(1)
Đây
là sự kiện có ý nghĩa trọng đại, đánh dấu sự ra đời của Đảng ủy Nghĩa Đàn, đóng
vai trò quan trọng trong việc tổ chức, lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân huyện Nghĩa Đàn nói chung cũng như nhân dân tổng Lâm La (Mai Xá
- Nghĩa Mai ) nói riêng.
Tháng
9.1934, sau vụ rải truyền đơn kỷ niệm ngày Xô viết Nghệ Tĩnh, các đồng chí Ngô
Tuân, Võ Nguyên Hiến (Chắt Kế) triệu tập Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An tại làng
Hậu Luật (Diễn Bình - Diễn Châu) và xuất bản tờ báo “Chuông Cách Mạng”
làm tài liệu tuyên truyền. Thánh 10.1934, Tỉnh ủy Nghệ An khôi phục, đồng chí
Võ Nguyên Hiến được bầu làm Bí thư, đồng chí Lại Văn Bút - Ủy viên Ban Chấp
hành. Những tài liệu do Đông Dương viện trợ bộ gửi về như: chương trình hành
động của Đảng công sản Đông Dương; trật tự tiến hành công tác cách mạng, cách
mạng vấn đáp.... Căn cứ vào tài liệu và sách báo của Tỉnh ủy Nghệ An, Huyện ủy
và các chi bộ Đảng ở Nghĩa Đàn đã có thêm những điều kiện để tiếp tục khôi phục
đảng bộ và phong trào quần chúng trong huyện.
Từ
ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 1935, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng
Cộng sản Đông Dương được triệu tập ở Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đề ra 3 nhiệm
vụ chính là: ra sức củng cố tổ chức Đảng, tích cực vận động quần chúng giữ vững
niềm tin và chống chiến tranh đế quốc. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương và
thông qua điều lệ Đảng. Đại hội đánh dấu sự phục hồi các tổ chức của Đảng,
chuẩn bị cho thời kì đấu tranh mới. Sau đại hội này, ông Võ Nguyên Hiến (Diễn
Bình) được cử làm Ủy viên Trung ương chính thức, phụ trách Xứ ủy Trung Kỳ.
Đầu năm 1937, Đảng bộ huyện
Nghĩa Đàn chính thức được thành lập dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Đức
Dương. Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 5 đồng chí.
1.
Đồng chí Phan Đình Lại
2.
Đồng chí Nguyễn Đình Thạc
3.
Đồng chí Trần Mật
4.
Đồng chí Nguyễn Đình Hoát
5.
Đồng chí Nguyễn Đức Dương.
Trong đó, đồng chí Phan Đình Lại được bầu làm Bí thư.
Sự ra đời của Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn đã đánh dấu bước ngoặt trong lịch
sử đấu tranh, cách mạng của nhân dân toàn huyện. Từ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam
huyện Nghĩa Đàn - Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức
cách mạng chân chính đứng ra đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân toàn
huyện vùng dậy đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Năm 1945, nhân dân các làng
Cáo, làng Xao, làng Bái, làng Bui, làng Nan (Nghĩa Mai), xã Tân Lập, tổng Lâm
La cùng với nhân dân huyện Nghĩa Đàn
làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây là thắng
lợi có ý nghĩa hết sức to lớn: lật đổ ách thống trị của bọn đế quốc, phát xít
hơn 80 năm, lật nhào chế độ quân chủ gần một nghìn năm trên đất nước ta. Đây
chính là tiền đề, cơ sở để nhân dân Nghĩa Mai nói riêng và Nghĩa Đàn nói chung
cùng nhân dân cả nước bắt tay vào một thời kỳ, xây dựng, bảo vệ chính quyền
cách mạng, phát triển cuộc sống mới dưới chế độ dân chủ cộng hòa.
Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, Đảng bộ xã Tân Lập cũng được thành lập dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần
Tiến Lục (cán bộ huyện được cử về). Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành gồm có 3
đồng chí:
1. Đồng chí Hoàng Văn Đồ - Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Lê Văn Khiêm - Phó Bí thư
3. Đồng chí Lê Văn Chiến - Trực đảng
Sự thành lập Đảng bộ xã Tân
Lập đã tạo tiền đề cho những bước phát triển mới trong phong trào đấu tranh
cách mạng của quần chúng nơi đây. Từ đó, phong trào phát triển thành cao trào
cách mạng trong quần chúng nhân dân thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Các đồng chí đảng viên của
Đảng bộ Tân Lập - tiền thân của Đảng bộ Nghĩa Mai sau này là lớp người tiêu
biểu, kiên trung, được rèn luyện, thử thách, sàng lọc qua hoạt động thực tiễn.
Đây thực sự là những người lãnh đạo giàu nhiệt tình cách mạng, sẵn sàng hy sinh
mọi lợi ích cá nhân, dám xả thân vì lý tưởng, vì sự ấm no hạnh phúc của nhân
dân.
Trải
qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ và thần thánh chống lại kẻ thù hùng mạnh
nhất thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Nghĩa Mai dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước và
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đóng góp sức người, sức của vào thắng lợi chung
của toàn dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1953), với vai trò là hậu phương của vùng tự do Thanh -
Nghệ - Tĩnh, nhân dân xã Tân Lập - Nghĩa Mai đã cung cấp lương thực, thực phẩm
cho các chiến trường. Đặc biệt, những người con của quê hương Nghĩa Mai còn
trực tiếp tham gia chiến đấu trên các chiến trường; tham gia vận chuyển vũ khí,
lương thực, thực phẩm ra các mặt trận, góp phần công sức không nhỏ vào thắng
lợi của chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên
Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu (7.5.1954), buộc thực dân Pháp phải ký
Hiệp định Giơ - ne - vơ kết thúc, chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, có nhiều người con của quê hương Nghĩa
Mai đã hy sinh để lại một phần xương máu trên các chiến trường. Truyền thống
đấu tranh chống giặc ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên của nhân dân các làng
xã Tân Lập - Nghĩa Mai sẽ viết tiếp nên truyền thống anh hùng của Nghĩa Mai hôm
nay.
Chương 2
CHI BỘ ĐẢNG NGHĨA MAI RA ĐỜI LÃNH
ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG (1953 - 1975)
I.
XÃ NGHĨA MAI THÀNH LẬP LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KINH TẾ, VĂN
HÓA, XÃ HỘI (1953 - 1975)
Tháng 7 năm 1953, theo chủ trương của cấp trên, chia tách các
xã lớn thành các xã nhỏ, xã Tân Lập lúc bấy giờ được chia thành 4 xã (Nghĩa
Thịnh, Nghĩa Yên, Nghĩa Mai, Nghĩa Minh). Do đó, Đảng bộ xã Tân Lập cũng được
chia thành 4 chi bộ, chi bộ Nghĩa Mai ra đời trong bối cảnh như vậy.
Xã Nghĩa Mai ra đời và
chi bộ Nghĩa Mai thành lập là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại, đánh dấu
bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của xã nhà. Phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân và xu thế của quy luật phát triển. Phát huy vai trò của bộ máy chính
quyền mới, Đảng bộ đã tích cực vận động nhân dân thi đua lao động sản xuất,
hoàn thành kế hoạch những năm tiếp theo. Từ đây, các hoạt động chính trị, kinh tế
- xã hội, quốc phòng - an ninh của vùng đất Nghĩa Mai có thêm điều kiện nêu cao
truyền thống, khơi dậy tiềm năng, phát huy nội lực, thu hút ngoại lực, tập
trung trí tuệ và sức mạnh của cả hệ thống chính trị, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn,
xây dựng quê hương giàu mạnh.
Ngay sau khi được
thành lập, tháng 8.1953, chi bộ Nghĩa Mai tiến hành đại hội lần thứ I, nhiệm kỳ
(1953 - 1955). Đại hội đã thảo luận chi tiết tình hình và nhiệm vụ cụ thể giai
đoạn 1954 - 1955. Chi bộ quán triệt chủ trương của Đảng về tình hình chính trị
lúc này, xác định đây là thời kỳ mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước
sang giai đoạn quyết định, quân và dân ta thực hiện tổng phản công chiến lược
Đông - Xuân năm 1954.
Chi ủy Nghĩa Mai giai
đoạn này gồm có 3 đồng chí:
1. Đồng chí Lê Văn Thắng - Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Lê Văn
Minh - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính
3. Đồng chí Trương Văn
Nam - Thư ký chi bộ (Trực Đảng)
Thực hiện phong trào “Mùa
đông binh sĩ”, nhân dân xã nhà tích cực tham gia hội, giúp những binh sĩ bị
nạn. Qua các đợt phát động “Đảm phụ quốc phòng” (năm 1949), “Ủng hộ bộ đội địa
phương”, “Lúa khao quân” (năm 1950) và “Công trái quốc gia” bằng thóc (năm
1951), hiến điền (năm 1952)…, tinh thần yêu nước của nhân dân ngày càng được
phát huy. Các chỉ tiêu trên giao, Nghĩa Mai đều hoàn thành vượt mức, điều này đã
phản ánh tinh thần yêu nước của nhân dân Nghĩa Đàn nói chung và nhân dân Nghĩa
Mai nói riêng trước yêu cầu của Quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, trong những năm
1952 - 1953, một số thương binh về làng được các mẹ trong Hội Mẹ chiến sỹ đón
nhận, chăm sóc tận tình và chu đáo. Điều đó càng thắt chặt hơn tình quân, dân ở
Nghĩa Mai.
Với
ý chí “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”, trải qua 9 năm chiến đấu gian khổ và hy sinh, sau 56 ngày
đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng,
chí không mòn”, ngày 7.5.1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ - nỗ lực cuối cùng
của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Đông Dương hoàn toàn thất bại. Hiệp định
Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm xâm lược và thống trị nước ta (1858 -
1954) của thực dân Pháp.
Ngày 7.5.1954 trở
thành một mốc son lịch sử hào hùng của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh chống
ngoại xâm. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thiên anh hùng ca chói ngời chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Đây là “lần đầu tiên
trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng
mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam…”
Cùng với đồng bào cả nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
xã Nghĩa Mai tràn ngập trong niềm vui chiến thắng. Mọi người đều tự hào vì
trong thắng lợi chung ấy có một phần công sức, mồ hôi, xương máu và cả nước mắt
của mình. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nghĩa Mai với vị trí,
vai trò là hậu phương của cuộc kháng chiến đã phát huy cao truyền thống yêu
nước, tinh thần cách mạng để xây dựng, bảo vệ vùng tự do và đóng góp sức người,
sức của phục vụ cho tiền tuyến. Những thành tích ấy càng thôi thúc cán bộ, đảng
viên và nhân dân Nghĩa Mai quyết tâm vượt lên mọi khó khăn, thử thách để hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong xây dựng và bảo vệ quê hương ở những giai
đoạn sau này. Âm vang chiến thắng Điện Biên Phủ thúc dục mọi người và mọi nhà.
II. THỰC HIỆN CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ KHÔI PHỤC KINH
TẾ, VĂN HÓA (1954 - 1960)
1 Hoàn thành cải cách ruộng đất (1954 - 1957)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành
thắng lợi. Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất chủ nghĩa xã hội và là hậu phương lớn của miền Nam.
Miền Nam tiếp tục nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và là tiền tuyến
lớn của cả nước. Mục tiêu chung của cả hai miền là giải phóng miền Nam, thống
nhất nước nhà, đưa cả nước cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tháng
01.1953, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 đã quyết định thực hiện nhiệm vụ cách
mạng ruộng đất. Tháng 12.1953, kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá II đã thông qua Luật
Cải cách ruộng đất và tiến hành thí điểm một số xã ở tỉnh Thái Nguyên. Ngày
18.12.1953, Hồ Chủ tịch ký ban hành Sắc luật cải cách ruộng đất số 197/SL. Tuy
nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh đang vào giai đoạn quyết liệt nên Cải cách
ruộng đất được tiến hành nhiều đợt. Đợt 1,2 được tiến hành ở một số xã thuộc
vùng tự do Liên khu Việt Bắc và Liên khu IV (chủ yếu là Thanh Hóa). Sau ngày
hòa bình lập lại là các tỉnh thuộc Bắc Bộ; khu IV hầu hết được tiến hành trong
đợt 4,5 - những đợt cuối cùng của chương trình cải cách ruộng đất. Ngày
27.8.1954, Thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ An ra Nghị quyết số 207/NQ - TU thành lập Ủy
ban cải cách ruộng đất và phát động cuộc vận động cải cách ruộng đất trong toàn
tỉnh. Tại Nghĩa Đàn, Cải cách ruộng đất được tiến hành vào đợt 5, từ tháng 1
đến tháng 6.1956.(1) Do vậy, cải cách ruộng đất ở Nghĩa Mai
cũng được tiến hành vào đợt 5.
Tháng
1.1955, Đại hội chi bộ lần thứ 2, nhiệm kỳ 1955 - 1956) ở Nghĩa Mai được tiền
hành. Ban Chi ủy gồm các đồng chí:
1. Đồng chí Cao Văn Điều - Bí thư
2. Đồng chí Trương Văn Nam - Trực Đảng
3. Đồng chí Lê Văn Minh - Chủ tịch Ủy
hành chính
Tháng
1.1956, Nghĩa Mai tiến hành đại hội chi bộ lần thứ 3, nhiệm kỳ (1956 - 1957).
Ban Chi ủy gồm các đồng chí:
4. Đồng chí Lương Văn Ón - Bí thư
5. Đồng chí Trương Văn Nam - Trực Đảng
6. Đồng chí Lê Văn Hải - Chủ tịch Ủy
ban hành chính
Với
tinh thần của người làm chủ, nông dân Nghĩa Mai đã tham gia các bước cải cách ruộng
đất với tinh thần hăng hái. Đêm đến, thanh, thiếu niên các xóm cũng rước đuốc
hô vang các khẩu hiệu. Đến tháng 8.1956, Nghĩa Mai đã hoàn thành căn bản cải
cách ruộng đất. Thắng lợi của cải cách ruộng đất còn tạo điều kiện về vật chất
và tinh thần để nhân dân Nghĩa Mai bắt tay vào cải tạo và phát triển quê hương
theo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy
vậy, trong các bước tiến hành cải cách ruộng đất cũng như các địa phương khác
trên miền Bắc, Nghĩa Mai cũng đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng: nặng về
đấu tố, truy bức tư tưởng chủ quan, máy móc trong việc phân định thành phần. Mở
rộng quá mức đối tượng đấu tranh, lấy hệ thống đoàn - đội cải cách thay cho hệ
thống lãnh đạo của Đảng và chính quyền, vô hiệu hóa chi bộ Đảng và Ủy ban hành
chính xã. Xử lý oan sai nhiều cán bộ, đảng viên tốt. Những sai lầm đó gây nên
tổn thất lớn và hậu quả nặng nề ngay trong những ngày đầu thực hiện cải cách,
làm cho nội bộ thôn xóm căng thẳng, mất đoàn kết trong thời gian dài. Người dân
và nhiều đảng viên bị sa sút niềm tin vào đường lối cách mạng của Đảng.
Công tác sửa sai sau cải cách ruộng đất:
Tháng
9.1956, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 (khóa II) đã quyết định
thực hiện sửa sai Cải cách cách ruộng đất. Căn cứ Chỉ thị của Tỉnh ủy Nghệ An
và các văn bản hướng dẫn của Huyện ủy Nghĩa Đàn, từ tháng 11.1956 - 5.1957, Nghĩa
Mai bước vào sửa chữa những sai lầm trong Cải cách ruộng đất. Theo chủ trương
của Trung ương: sửa sai trong công tác tổ chức trước, sửa sai cải cách sau;
sửa sai thành phần trước, sửa sai tài sản sau...
Tiếp
đến năm 1957, Nghĩa Mai tiến hành đại hội chi bộ lần thứ 4, nhiệm kỳ (1957 -
1958). Ban Thường vụ gồm các đồng chí:
1. Đồng chí Trương Văn Nam - Bí thư
2. Đồng chí Lê Văn Chung - Trực Đảng
3. Đồng chí Lê Văn Minh - Chủ tịch Ủy
ban hành chính
Công
tác sửa sai cải cách ruộng đất tại Nghĩa Mai được tiến hành theo ba bước như
sau:
Bước
1: Học tập quán
triệt các chủ trương về công tác sửa sai của Trung ương Đảng, Liên khu ủy IV và
Tỉnh ủy; ổn định tư tưởng trong Đảng bộ và nhân dân; củng cố khối đoàn kết
trong Đảng và nhân dân; kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo Đảng và chính quyền.
Bước
2: Sửa lại thành
phần, đảng tịch và danh dự cho những gia đình bị quy sai, điều chỉnh lại ruộng
đất, đền bù tài sản cho những người bị tịch thu sai.
Bước
3: Hoàn thành các
công việc còn lại(1).
Nhờ
sự chỉ đạo sâu sát của Huyện ủy và phương pháp tiến hành đúng chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, công tác sửa sai cải cách ruộng đất ở Nghĩa Mai đã
hoàn thành vào giữa năm 1957. Kết quả: hạ thành phần cho một số địa chủ xuống
phú nông; khôi phục sinh hoạt Đảng cho số đảng viên bị xử oan. Nhờ đó, mối bất
hòa, mất đoàn kết trong nhân dân được giải tỏa, nội bộ thôn xóm dần trở lại nếp
sống và sinh hoạt bình thường. Sự đoàn kết trong Đảng được khôi phục. Mối quan
hệ giữa Đảng và quần chúng dần được củng cố.
Thắng
lợi của sửa sai cải cách ruộng đất đã làm thất bại âm mưa của kẻ thù lợi dụng
sự bất mãn trong một bộ phận nhân dân để kích động chống lại chính quyền, chống
chế độ. Đồng thời, thắng lợi này một lần nữa đã xây dựng và củng cố niềm tin
trong nhân dân, tạo nên bầu không khí an tâm, phấn khởi để cùng nhau bước vào
công cuộc khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế.
2. Nghĩa Mai thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo quan
hệ sản xuất và bước đầu phát triển văn hóa giáo dục (1958 - 1960)
Cải tạo quan hệ sản xuất, thành lập hợp tác xã nông nghiệp
Để thực hiện tốt nhiệm vụ cải tạo quan
hệ sản xuất và bước đầu phát triển văn hóa giáo dục,tháng 11.1958, Nghĩa Mai
tiến hành đại hội chi bộ lần thứ 5, nhiệm kỳ (1958 - 1959). Ban chi ủy gồm các
đồng chí:
1.
Đồng chí Cao Văn Điều - Bí thư
2.
Đồng chí Lê Công Tàu - Trực Đảng
3.
Đồng chí Lê Văn Nhiên - Chủ tịch Ủy ban hành chính
Đại
hội đã kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ: đón tiếp cán bộ, đồng bào
miền Nam ra tập kết, hàn gắn vết thương chiến tranh, chuyển mọi hoạt động từ
thời bình sang thời chiến, khôi phục kinh tế, xây dựng tổ đổi công, bước đầu
phát triển văn hóa, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể của Đảng bộ.
Trên cơ sở đó, Đại hội đã đề ra phương
hướng và nhiệm vụ mới: ra sức phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
tổ đổi công, tiến tới thành lập hợp tác xã nông nghiệp, đồng thời tích cực phát
triển các thành phần kinh tế quốc doanh.(2)
Thực hiện chủ trương trên, tháng 11.1959, Nghĩa Mai vận
động nhân dân xây dựng tổ đổi công, vần công để giúp nhau trong sản xuất. Tổ
đổi công được xây dựng trên cơ sở các hộ liền kề, thuận canh, thuận cư và thuận
tình. Hình thức hoạt động là gia đình; trong tổ tham gia các công việc của nhau
theo kế hoạch của từng gia đình. Trong khi làm việc, các gia đình tự nguyện tổ
chức bồi dưỡng sức lao động cho nhau hàng ngày (nay làm cho nhà này, mai tập
trung làm cho nhà kia). Cứ như thế lần lượt quay vòng cho nên gọi là vần công (xoay
vần đổi công cho nhau). Các tổ đổi công đều tập trung cải tiến kỹ thuật canh tác
với 7 biện pháp liên hoàn “nước đủ, phân nhiều, cày sâu, giống tốt, cải tiến
công cụ và phòng trừ sâu bệnh”. Xã phát động phong trào vệ sinh “sạch làng tốt
ruộng”, phong trào làm phân xanh, làm thủy lợi với phương châm “ba chính” (giữ
nước là chính, tiểu thủy lợi là chính và dân làm là chính). Tổ đổi công, vần công
chính là tiền thân để Nghĩa Mai thành lập các hợp tác xã sau này.
Sau 4 tháng phát động, hầu hết các xóm đều triển khai thành
lập tổ đổi công, khí thế rất sôi nổi, háo hức. Cũng qua đó, bà con đã nhận ra
lợi ích to lớn của con đường làm ăn tập thể. Lúc này, ở Nghĩa Mai có 17 tổ đổi
công:
1. Làng Cáo (4 tổ)
2. Làng Giàn
3. Làng Se
4. Làng Dóm
5. Làng Nạn
6. Làng Đồn
7. Làng Bầu
8. Làng Sào (Xao)
9.
Làng Sừa
10. Làng Bái 1
11.Làng Bái 2
12. Làng Bui
13. Làng Lai Châu
Ngày
25.8.1959, Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 150 về việc tiến hành cuộc cải cách
dân chủ ở miền núi(1). Mục tiêu của cải cách dân
chủ: xóa bỏ thế lực chính trị và kinh tế còn lại của giai cấp địa chủ phong
kiến, mở đường cho địa chủ lao động cải tạo thành con người mới, trấn áp bọn
phản động phá hoại công cuộc xây dựng xã hội, kiên quyết đưa nông dân vào con
đường hợp tác hóa nông nghiệp, tiến lên xã hội chủ nghĩa. Phương châm cuộc vận
động là: dựa hẳn vào bần, cố nông và trung nông, tranh thủ những người thuộc
lớp trên có liên hệ với quần chúng.
Tháng 11.1959, Tỉnh ủy chỉ đạo tiến hành “Cuộc vận động
hợp tác hóa nông nghiệp, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi Nghệ
An”
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp
bàn kế hoạch thực hiện chủ trương cải cách dân chủ trong huyện và cử đồng chí
Nguyễn Xuân Trí - Phó Bí thư Huyện ủy - Chủ tịch Ủy ban hành chính làm Trưởng
ban. Cuộc cải cách dân chủ được chia làm ba bước:
Bước 1: Học tập chủ trương và cách thức tiến hành
cải cách dân chủ của Đảng và Chính phủ. Qua học tập, nông dân thấy rõ thủ đoạn
bóc lột của chủ đất và sẵn sàng đoàn kết đấu tranh để xóa bỏ uy thế và độc
quyền của họ. Người nông dân vừa học tập vừa tích cực đẩy mạnh sản xuất, củng
cố tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã, đồng thời tăng cường vệ sinh phòng bệnh,
xóa nạn mù chữ…
Bước 2: Tiến hành làm thí điểm một số xã.
Bước 3: Phát động nông dân kiểm tra các chủ đất sau
khi quần chúng đấu tranh vạch trần tội ác và những thủ đoạn bóc lột của chủ đất
đầu sỏ, chính quyền tuyên bố tịch thu ruộng đất và một phần tài sản chia cho
dân cày nghèo. Số địa chủ còn lại, chính quyền cho họ học tập chủ trương, chính
sách của Đảng, Chính phủ và giao trách nhiệm cho họ phải tự nộp một số ruộng
đất cho nông dân. Đối với gia đình những người này, chính quyền vẫn giành lại
một số ruộng đất, tài sản ngang với mức sống trung nông.
Đến giữa năm 1960, cuộc vận động cải cách dân chủ ở Nghĩa
Mai nói riêng và huyện Nghĩa Đàn nói chung đã hoàn thành tốt đẹp, xóa bỏ ách áp
bức bóc lột của tầng lớp chủ đất, đưa ruộng đất về tay nông dân.
Tháng 12
năm 1959, Nghĩa Mai tiến hành đại hội chi bộ xã lần thứ 6, nhiệm kỳ (1959 -
1960). Ban chi ủy gồm các đồng chí:
1. Đồng chí Lê Văn Cảnh - Bí thư
2. Đồng chí Trương Văn Nam - Trực Đảng
3. Đồng chí Cao Văn Điều - Chủ tịch Ủy ban hành
chính
Cuối năm 1959, theo chủ trương của Trung ương, toàn miền
Bắc tiến hành đưa nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp. Ở Nghĩa Mai, sau
những thành công của mô hình tổ đổi công, vần công, các xóm đều muốn tiến hành
thành lập hợp tác xã. Theo chủ trương của Trung ương, mô hình hợp tác xã được
chia làm ba cấp: hợp tác xã quy mô nhỏ (cấp xóm); quy mô vừa (cấp liên xóm);
quy mô toàn xã (bậc cao).
Trình
tự tiến hành thành lập hợp tác xã như sau:
Bước 1: Tổ chức cho nhân dân học tập Điều lệ Hợp tác
xã do Trung ương soạn thảo để nông dân hiểu được các vấn đề có liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của mình cũng như quy cách làm ăn của hợp tác xã.
Bước 2: Trên cơ sở đó, người nông dân viết đơn tự
nguyện tham gia hợp tác xã.
Bước 3: Sau khi thành lập, hợp tác xã tiến hành Đại
hội xã viên bầu Ban quản trị và Ban Kiểm soát để điều hành và kiểm soát mọi
công việc của xã.
Ở
giai đoạn đầu của hợp tác xã quy mô xóm, hộ xã viên chỉ đóng góp một phần ruộng
đất, nông cụ vào hợp tác xã. Cách phân phối sản phẩm cũng được chia ra làm 2
phần: phần chia cho công điểm làm được của xã viên; phần chia cho sự đóng góp
ruộng đất, nông cụ cho hợp tác xã gọi là phần hoa lợi để đảm bảo sự công bằng
(người đóng nhiều hưởng nhiều, người đóng ít hưởng ít).
Ở Nghĩa Mai, sau khi có ý kiến và được sự
đồng ý của huyện, đầu năm 1960, xã quyết định chỉ đạo tổ chức thành lập 6 hợp
tác xã nông nghiệp:
1.
Hợp tác xã nông nghiệp Giàn Thành do Lương Văn Ón, Lò Văn Chung làm chủ nhiệm.
2. Hợp tác xã nông nghiệp Cát Long do ông Hoàng Văn Vinh,
Hoàng Văn Trí, Cao Văn Lục, Lê Văn Hai làm Chủ nhiệm.
3. Hợp tác xã nông nghiệp Bình Long do các ông Lê Văn Đương,
Lê Hữu Phú, Lê Văn Tuyên làm Chủ nhiệm.
4. Hợp tác xã nông nghiệp Yên Bái do các ông Lê Văn Đài,
Hoàng Văn Thể, Lê Văn Hoạt, Lê Văn Niêm, Lê Văn Dựa, Lê Văn Tiếp làm Chủ nhiệm.
5. Hợp tác xã nông nghiệp Bui Thai do các ông Hoàng Văn
Nội, Lê Khắc Giá, Lê Văn Hồi, Lê Văn Ảnh, Lê Văn Kỷ làm Chủ nhiệm.
6. Hợp tác xã nông nghiệp Lai Châu do các ông Vi Văn Ba, Vi
Văn Tưởng, Hoàng Văn Tiến, Hoàng Văn Dư, Vi Văn Toàn làm Chủ nhiệm.
Phương
thức quản lý, điều hành và phân phối trong hợp tác xã được tiến hành như sau:
+ Hợp
tác xã tiến hành đại hội xã viên bầu ra Ban Quản trị và Ban Kiểm soát. Ban Quản
trị bầu ra Ban chủ nhiệm làm nhiệm vụ điều hành toàn bộ hoạt động của hợp tác
xã.
+ Một
hợp tác xã chia ra nhiều đội sản xuất. Tùy vào sự phân bố dân cư mà các đội cho
hợp lý. Ban Quản trị cử ra một đội trưởng và một đội phó làm nhiệm vụ ghi công,
chấm điểm cho xã viên. Cuối mỗi vụ, họ báo kết quả lao động của các xã viên lên
để Ban Quản trị để hoạch toán, ăn chia.
+
Việc phân phối, ăn chia tiến hành theo hai mức, thứ nhất ăn chia theo
công điểm (là phần thu nhập chính của xã viên). Trung bình một ngày công đi làm
của một lao động chính được tính từ 10 - 12 điểm (10 điểm bằng một công) tùy
theo năng suất lao động. Còn lao động phụ được tính từ 8 - 10 điểm. Giá trị của
một công tùy theo năng suất của từng vụ. Thứ hai ăn chia theo hoa lợi
theo Điều lệ Hợp tác xã, khi vào hợp tác xã, xã viên sẽ tự nguyện đóng góp
ruộng đất, tư liệu sản xuất cho hợp tác xã. Để đảm bảo công bằng, số lượng đất
và tư liệu này sẽ được hưởng hoa lợi bằng cách tính phần trăm thóc trong tổng
thu nhập. Ai góp nhiều được hưởng nhiều. Điều đó làm cho xã viên yên tâm, tin
tưởng đóng góp ruộng đất và tư liệu cho hợp tác xã.
Các
hợp tác xã nông nghiệp ra đời đã mở ra phương thức làm ăn mới trong nông thôn
dưới sự quản lý, điều hành của Ban Quản trị, áp dụng phương thức ăn chia theo
công điểm, công việc phân công ghi trên bảng tin hoặc thông báo bằng loa đài.
Phương thức làm ăn này từng bước khẳng định tính ưu việt của nó vì đạt hiệu quả
cao. Từ đó, cổ vũ, động viên bà con trong xã hăng hái, tự giác lao động sản
xuất. Lần đầu tiên các hộ nông dân vào làm ăn tập thể với bao háo hức, chờ đợi.
Hàng ngày, từ mờ sáng, khi nghe tiếng kẻng báo hiệu vang lên là bà con khắp
thôn xóm cùng nhau ra đồng. Đêm đến, các hợp tác xã tổ chức sinh hoạt xã viên,
qua đó động viên bà con tích cực, sáng tạo hơn nữa trong lao động. Thời gian này, cùng với sự ra đời và phát triển của hợp
tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán xã Nghĩa Mai cũng
được thành lập. Điều này đã tạo nên phong trào “ba ngọn cờ hồng” góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế của xã Nghĩa Mai.
Tháng 7.1959, Hợp tác xã vay mượn (Hợp tác xã tín dụng) Nghĩa Mai ra
đời. Đến tháng 12.1959, Hợp tác xã Tín dụng tiến hành đại hội nhiệm kỳ (12.1959
-12.1962), ông Cao Văn Điều được bầu làm Chủ nhiệm.
Hợp tác xã mua bán Nghĩa Mai ra đời cuối năm 1959 và tiến hành đại hội
nhiệm kỳ thứ nhất (1959 - 3.1963); ông Lê Hồng Phú làm Chủ nhiệm.
Trong
quá trình thực hiện khôi phục và cải tạo kinh tế (1958 - 1960), Nghĩa Mai có
nhiều thay đổi căn bản trong sản xuất nông nghiệp: tiến bộ của khoa học kỹ
thuật bước đầu được áp dụng. Công tác thủy nông được chú trọng với phương châm
ba chính: giữ nước là chính, thủy lợi nhỏ và vừa là chính, dân tự làm là
chính. Cuối năm 1960, Nghĩa Mai cùng với các xã Nghĩa Lâm, Nghĩa Yên đạt
bình quân mỗi lao động đắp 6 m3 đất làm thủy lợi. Hợp tác xã cùng
nhân dân khai hoang phục hóa, biến ruộng một vụ thành ruộng hai vụ, tăng thêm
diện tích lúa. Việc đầu tư thêm phân bón, sử dụng phân đạm, thu hẹp diện tích
cấy chay được tiến hành. Mô hình trồng cây làm phân xanh, phân bùn, ao, được áp
dụng, góp phần cải tạo đất, nâng cao năng suất cây trồng. Đến năm 1960, ở Nghĩa Mai bình quân lương thực đầu người đạt
30 kg, bình quân 5 hộ gia đình có 1 xe cải tiến. Việc đẩy mạnh chăn nuôi gia
súc, gia cầm vừa đảm bảo nhu cầu thực phẩm cho nhân dân vừa đưa lại hiệu quả
kinh tế cao.
Công tác giáo dục, y tế
Công
tác giáo dục ở Nghĩa Mai trong giai đoạn này có nhiều khó khăn. Đồng bào dân
tộc Thanh, Thổ do chưa nhận thức được vai trò của cái chữ nên ít quan tâm đến
việc cho con em đến trường, trường cấp 1
được xây dựng đơn sơ, tạm bợ. Tuy nhiên, việc học bổ túc văn hóa đã thu hút
phần lớn các đồng chí cán bộ lãnh đạo nhằm nâng cao trình độ văn hóa đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ công tác. Các lớp bổ túc văn hóa trong giai đoạn đầu còn học
trong nhà dân và hội quán. Về sau, khi trường cấp 1 được nâng cấp thì tất cả
con em trong xã đều được học tại các trường. Nhờ đó, trình độ văn hóa của nhân
dân từng bước được nâng lên, nhất là số cán bộ lãnh đạo. Về sau, khi các bậc
phụ huynh nhận thức được việc học hành của con em là rất cần thiết, nhiều gia
đình có điều kiện đã đón thầy, cô giáo về nhà dạy học cho con em của mình. Thời
gian này, đất nước còn khó khăn nên việc học hành của các em đều không phải đóng
học phí. Mặt khác, Nhà nước còn cấp học bổng cho những học sinh các gia đình
nghèo khó, con em chính sách. Tất cả những điều đó đã nói lên tính ưu việt của
nền giáo dục cách mạng trong những năm đầu đi lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
những năm cuối của giai đoạn này, số lượng học sinh ở Nghĩa Mai đã tăng lên
đáng kể.
Những
năm sau chiến tranh, việc khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân vô
cùng khó khăn. Bởi vì trong thời gian này, số lượng y, bác sỹ cũng như nguồn
thuốc chưa đáp ứng đầy đủ cho bệnh nhân nên ốm đau, bệnh tật, nhân dân đều tự
chữa chạy, tự tìm thầy. Bà con trong vùng thường nhờ thầy cúng, thầy lang và
dùng thuốc Nam là chủ yếu. Do đó, số người tử vong rất cao, nhất là trẻ em và
người già. Trước tình hình đó, công tác y tế trong giai đoạn đầu chủ yếu thực
hiện ba sạch “ăn sạch, ở sạch, uống sạch”. Xã đã vận động bà con tự giác
thực hiện việc xây dựng 3 công trình vệ sinh: nhà tắm, giếng nước và nhà vệ
sinh.
Trạm xá của xã có đội ngũ y, bác sỹ chuyên trách phục vụ
khám, chữa bệnh cho bà con rất chu đáo. Xã cũng tập trung cho việc phòng chống
căn bệnh cố hữu là sốt rét thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục để người
dân tự giác thực hiện như: nằm màn, vệ sinh nhà ở và dùng thuốc để diệt muỗi.
III.
NGHĨA MAI TIẾN HÀNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 - 1965)
Căn cứ vào kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất
(1961 - 1965) và tinh thần Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ VI (tháng
3.1961), tháng 10.1961, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn lần thứ VIII
được tổ chức tại Bàu Sen (Thái Hòa). Đại hội đã tập trung bàn về vấn đề: “Hoàn
thiện quan hệ sản xuất mới, ra sức xây dựng cơ sở vật chất ban đầu của chủ
nghĩa xã hội; thực hiện ba cuộc cách mạng ở miền Bắc do Đảng đề ra, đề cao cảnh
giác, bảo vệ địa phương và thi đua lao động sản xuất, lấy thành tích ủng hộ
đồng bào miền Nam, đồng bào Quảng Ngãi kết nghĩa đấu tranh chống Mỹ - ngụy”(1).
Năm
1960, Chi bộ xã Nghĩa Mai phát triển thành Đảng bộ với số lượng 30 đảng viên.
Đây là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu bước phát triển trong công tác Đảng
của xã Nghĩa Mai.
Tiếp
theo đó, tháng 12.1960, đại hội Đảng bộ xã Nghĩa Mai lần thứ 7, nhiệm kỳ (1960
- 1962) được tiến hành. Trong phiên họp đầu tiên Ban Chấp hành đã bầu ra Ban
thường vụ gồm các đồng chí:
1. Đồng chí Lê Công Tàu - Bí thư Đảng
ủy
2. Đồng chí Trương Văn Nam - Trực Đảng
3. Đồng chí Cao Văn Điều - Chủ tịch Ủy
ban hành chính
Tiếp
đó, tháng 12. 1962, đại hội Đảng bộ xã Nghĩa Mai lần thứ 8, nhiệm kỳ (1962 -
1964) được tiến hành tại hội trường Hợp tác xã. Ban Thường vụ gồm:
1. Đồng chí Lê Văn Cảnh - Bí thư Đảng
ủy
2. Đồng chí Cao Văn Chúc (12.1962 -
12.1964) - Trực Đảng
3. Đồng chí Cao Văn Điều - Chủ tịch Ủy
ban hành chính
Ngày 19.04.1963, Hội đồng Chính phủ ra Quyết
định số 52 phê chuẩn việc chia ba huyện Quỳ Châu, Anh Sơn, Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ
An thành bảy huyện mới: Quỳ Châu, Quế Phong, Quỳ Hợp, Anh Sơn, Đô Lương, Nghĩa
Đàn và Tân Kỳ. Cắt 10 xã của huyện Nghĩa Đàn, 1 xã của huyện Yên Thành, 2 xã
của huyện Anh Sơn để thành lập huyện Tân Kỳ. Huyện Nghĩa Đàn mới có thị trấn
Thái Hòa và 23 xã(2) trong đó có xã Nghĩa Mai.
Hòa
chung với không khí cách mạng sôi nổi của đồng bào chiến sỹ cả nước, Đảng bộ và
nhân dân Nghĩa Mai đã đoàn kết nhất trí, từng bước thực hiện các nhiệm vụ trọng
tâm của địa phương.
1. Về kinh tế
Trên
cơ sở quán triệt nội dung, tinh thần các Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và
cả huyện, Nghĩa Mai bước vào triển khai kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất
với một khí thế sôi sục, mạnh mẽ, rộng khắp trên mọi lĩnh vực và bằng nhiều
biện pháp cụ thể, thiết thực. Đầu năm 1961, hưởng ứng chiến dịch “An - Ngãi
quật khởi”(1), rút kinh nghiệm từ chiến dịch “tiếng trống Xô
viết”, toàn xã đã đồng loạt ra quân mở đợt tuyên truyền rộng rãi với nhiều hình
thức phong phú như: sinh hoạt tập trung, phát thanh trên loa, băng rôn, cờ, khẩu
hiệu… cổ vũ mọi người quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu của chiến dịch.
Khẩu hiệu hành động của tỉnh lúc này là: “Gióng trống Ba tơ, phất cờ Xô
viết, đoàn kết thi đua, giật cờ chiến dịch; Nghệ An đổ giọt mồ hôi, để cho
Quảng Ngãi bớt rơi máu đào”.
Trong Đảng thực hiện cuộc vận động xây dựng “Chi bộ 4 tốt”:
lãnh đạo sản xuất và chiến đấu tốt; chấp hành các chính sách tốt; chăm lo đời
sống và vận động quần chúng tốt; làm tốt công tác phát triển Đảng.
Đoàn Thanh niên với phong trào thi đua “5 nhất”, cụ thể:
làm thủy lợi nhiều nhất, cải tiến công cụ khá nhất, chăn nuôi giỏi nhất, làm
phân bón giỏi nhất.
Hội Phụ nữ có phong trào thi đua “5 tốt” chấp hành chính
sách tốt, tham gia quản lý hợp tác xã tốt, đoàn kết sản xuất tốt, học tập văn
hóa, chính trị và kỹ thuật tốt, sắp xếp gia đình và nuôi dạy con cái tốt.
Những ngày đầu xuân năm 1961, nhân dân
Nghĩa Mai ra quân thực hiện chiến dịch với khí thế rộn ràng, phấn khởi chưa
từng có. Khẩu hiệu: “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “vì Quảng Ngãi kiên cường”,
“Làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm” đã khích lệ mọi tầng lớp nhân dân
trong các cơ sở hăng hái, hưởng ứng tham gia. Nhiều đơn vị đã tổ chức những
hoạt động như: tát nước, nhổ mạ, làm đất, trồng màu vào các buổi tối. Đây cũng
là thời điểm hình thành tổ thí nghiệm ở các hợp tác xã. Các hợp tác xã thực
hiện một số kỹ thuật mới đưa vào trong sản xuất như: chế biến phân, cấy dăng
dây thẳng hàng… Do đó, bà con các dân tộc Thái, Thổ trong xã đã được tiếp cận
với nhiều hình thức sản xuất mới đem lại hiệu quả khả quan, góp phần cải thiện
đời sống cho nhân dân trên địa bàn xã.
Trong không khí vui tươi, phấn khởi thực hiện các phong
trào thi đua, ngày 18.12.1961, đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện Nghĩa
Đàn vô cùng vinh dự được đón Bác Hồ về thăm.
Trong cuộc trò chuyện với đại biểu các dân tộc, Bác đã căn dặn nhiều điều quý
giá. Trong đó, Người nhấn mạnh đến sự đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa đồng
bào các dân tộc để phát huy được thế mạnh tập thể và vùng đất Phủ Quỳ giàu tiềm
năng, làm cho cuộc sống của bà con ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Sau ngày đón Bác về thăm, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ và
đồng bào các dân tộc xã Nghĩa Mai phấn khởi, hăng hái hơn, nhất là trong các
hoạt động. Mọi người luôn ghi nhớ những lời căn dặn ân cần của Bác và khát khao
làm thật nhiều, cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp cách mạng.
Với tinh thần “Vì miền Nam ruột thịt” và mong muốn
cống hiến sau lần Bác Hồ về thăm, trong 3 năm (1960 - 1962). Lực lượng dân quân
tự vệ phối hợp với thanh niên đã đắp thêm 4 con đập vừa và nhỏ, bằng các phương
tiện như: cuốc, xẻng, quang gánh với hàng ngàn ngày công, đào đắp lên tới
65.000 m3 đất đá. Giai đoạn này, công tác khai hoang phục hóa ở
Nghĩa Mai rất được chú trọng. Vì thế, đến năm 1964, diện tích canh tác của
Nghĩa Mai đã tăng lên 400 ha.
Nhờ có sự đầu tư và chú trọng trong vấn đề
thủy lợi nên Nghĩa Mai có lợi thế để phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là
trồng lúa nước. Ngoài ra, xã còn có các loại
giống lúa khác như: lốc chăm kết hợp với lúa nương cằm và các loại nếp. Đến giai đoạn này, các hợp tác xã đã
áp dụng một số tiến bộ của khoa học kỹ thuật như bỏ cày chìa vôi sang sử dụng
cày 51, tăng cường sản xuất phân xanh, ủ phân tại chỗ, cấy dày vừa phải và
thẳng hàng. Hầu hết diện tích canh tác của Nghĩa Mai sau đợt này đã được gieo
trồng hết. Lúa và các cây hoa màu vì thế mà sinh trưởng, phát triển tốt cộng
với thời tiết thuận lợi nên cho năng suất cao hơn vụ trước. Năng suất lúa Đông
Xuân của nhiều hợp tác xã đạt từ 2,5 - 3,5 tấn/ha. Nhiều hợp tác xã đã tiến
hành xây dựng nhà kho, sân phơi, tạo thêm nhiều trục lúa (trục đá). Đi đầu là
lực lượng lao động trẻ như: thanh niên, dân quân (lao động chính) đã thúc đẩy
mọi phong trào của hợp tác xã, góp phần nâng cao đời sống của bà con xã viên.
Việc
giao nộp nghĩa vụ Thuế nông nghiệp ở Nghĩa Mai cũng đầy đủ và kịp thời hơn (kể
cả số lượng và chất lượng). Những kết quả đạt được, càng cổ vũ thêm tinh thần
của bà con nông dân. Và cũng nhờ đó, một số hộ còn chân trong, chân ngoài đã có
đơn xin gia nhập hợp tác xã. Vì vậy, tính đến thời điểm này, xã Nghĩa Mai đã có
90% số hộ đã tham gia hợp tác xã. Đây là thắng lợi lớn của đường lối cải tạo
quan hệ sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II.
Nghĩa Mai tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã
Thực hiện Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị khóa
III, Nghĩa Mai tiến hành cải tiến hợp tác xã lần 1 với những nội dung chính
sau:
Xác định rõ phương hướng sản xuất hàng vụ, hàng năm, xây
dựng nội dung quản lý lao động, đất đai, tài vụ theo điều lệ thông qua đại hội
đại biểu xã viên.
Cải tiến nông cụ, xây dựng định mức công điểm hợp lý, định
tiêu chuẩn kỹ thuật trong các khâu trồng trọt và chăn nuôi, xây dựng - đội kỹ
thuật, từng bước phát triển ngành nghề phụ, tận dụng hết đất đai lao động, tăng
thu nhập cho hợp tác xã và xã viên. Cuộc cải tiến bước đầu đã thu được một số
kết quả khả quan như:
- Các ban quản trị đã lập được phương án sản xuất, ăn chia
phân phối hàng vụ, hàng năm và thông qua Đại hội đại biểu xã viên một cách dân
chủ công khai.
- Công tác “ba khoán”, “ba quản”(1) đã đi vào
nền nếp, khắc phục một phần rong công, phóng điểm, thiếu minh bạch trong việc
thu, chi và phân phối sản phẩm.
- Một số cơ sở nhà kho, sân phơi, trụ sở, chuồng trại, chăn
nuôi của hợp tác xã được làm mới.
- Áp dụng được một số biện pháp thâm canh liên hoàn, đưa
một số giống mới và cây con vào sản xuất, mở mang cây trồng, làm thủy lợi, thả
bèo hoa dâu, đẩy mạnh việc dùng công cụ cải tiến như: cày 51, cào cỏ 64A, xe
kiến an vào sản xuất. Nhờ đó, năng suất tăng lên đáng kể.
Từ những kết quả đạt được, đời sống xã viên trên địa bàn xã
ngày càng được cải thiện, hợp tác xã bước đầu có tích lũy và làm tốt nghĩa vụ
lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước.
Đón tiếp đồng bào miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh
Nghệ An về chương trình dắm dân và khai hoang, từng bước điều hòa mật độ dân số
trong tỉnh, năm 1965, xã Nghĩa Mai đã đón nhận một số bà con miền xuôi lên xây
dựng vùng kinh tế mới nhằm phát triển kinh tế miền núi........
Đợt đầu tiên, Đảng ủy và nhân dân xã Nghĩa Mai đã hoàn thành sản xuất nhiệm vụ
đón nhận bà con các vùng lên dắm dân, khai hoang. Qua đợt này, xã cũng đã rút
ra được những bài học kinh nghiệm, tạo tiền đề cho những đợt tiếp nhận sau này.
Việc tiếp nhận bà con từ miền xuôi lên khai hoang, dắm dân nhiều đợt đã làm cho
dân số tăng nhưng đồng thời cũng nảy sinh khó khăn mới. Để làm tốt việc này,
Chi ủy, chính quyền địa phương đã chủ động trực tiếp dàn xếp các vấn đề có liên
quan: tổ chức gặp mặt bà con trong xã có người mới đến và bố trí nhà trọ ban
đầu, dàn xếp đất ở, khai hoang, canh tác…
Việc tăng dân số ở Nghĩa Mai lúc này đã tạo thêm khí thế
mới cho mọi sinh hoạt trong xã. Các phong trào đều có sự chuyển biến tốt nhờ có
thêm sức người, sức của. Niềm vui của người cũ, người mới được thực hiện trong
công việc, họ cùng kề vai sát cánh, đoàn kết đồng lòng vững tin vào Đảng, tin
vào tiền đồ tươi sáng của quê hương Nghĩa Mai.
Trong
tình hình dân số và số lượng đảng viên tăng lên do được bổ sung từ các xã miền
xuôi xã đã thành lập thêm 3 hợp tác xã nông
nghiệp. Như vậy, giai đoạn 1966 - 1968 xã
Nghĩa Mai có 9 hợp tác xã nông nghiệp:
1.
Hợp tác xã nông nghiệp Giàn Thành do Lương Văn Ón, Lò Văn Chung làm Chủ nhiệm.
2. Hợp tác xã nông nghiệp Cát Long do ông Hoàng Văn Vinh,
Cao Văn Trí, Lê Văn Hai làm Chủ nhiệm.
3. Hợp tác xã nông nghiệp Bình Long do ông Lê Văn Đương, Lê
Hữu Phú, Lê Văn Tuyên làm Chủ nhiệm.
4. Hợp tác xã nông nghiệp Yên Bái do ông Lê Văn Đài, Hoàng
Văn Thể, Lê Văn Hoạt, Lê Văn Niêm, Lê Văn Dựa, Lê Văn Tiếp, Hoàng Văn Thổ làm
Chủ nhiệm.
5. Hợp tác xã nông nghiệp Bui Thai do ông Hoàng Văn Nội, Lê
Khắc Giá, Lê Văn Hồi, Lê Văn Ảnh, Lê Văn Kỷ làm Chủ nhiệm.
6. Hợp tác xã nông nghiệp Lai Châu do ông Vi Văn Ba, Vi Văn
Tưởng, Hoàng Văn Tiến, Hoàng Văn Dư, Vi Văn Toàn làm Chủ nhiệm.
7. Hợp tác xã nông nghiệp Hùng Tiến 1 do ông Trung, Nghị
làm Chủ nhiệm
8. Hợp tác xã nông nghiệp Hùng Tiến 2 do ông Nguyễn Đình
Liên, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Đình Huệ Chủ nhhiệm
9. Hợp tác xã Nghĩa Châu (Diễn Tháp) do ông Nguyễn Minh Vị
đến năm 1972 thì giải thể
Giai đoạn này, hợp tác xã đóng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế
của xã nhà. Sản phẩm sản xuất ra được đưa về kho, sau đó phân phối lại cho xã
viên “người có công cao thì được phân phối lúa, sắn, khoai nhiều” và một phần chia
cho định xuất. Do phát triển tương đối tốt nên giai đoạn này các hợp tác xã đã
thu hút nhiều người tham gia vào hợp tác xã và đã đóng thuế đầy đủ cho Nhà
nước.
Hợp tác xã tín dụng Nghĩa Mai tiến hành đại hội nhiệm kỳ thứ 2 (1.1963 -
12.1966) do ông Cao Văn Điều làm Chủ nhiệm
Hợp tác xã mua bán nhiệm kỳ thứ 2 (3.1963 - 12.1971) do ông Lê Văn Niêm
làm Chủ nhiệm.
Giai đoạn này, hợp tác xã mua bán lấy các mặt hàng từ cửa hàng mua bán
huyện và cửa hàng thương mại, thực phẩm thị trấn Thái Hòa: như vải, quần áo,
xăm lốp xe đạp, xoong, dầu hỏa muối, nước mắm và một số mặt hàng tạp hóa... Sau
đó, bán và phân phối cho nhân dân như: vải 1 người 4 m, dầu 2 chai/ một tháng/hộ...
Để vận chuyển hàng hóa về xã, cửa hàng đã dùng đôi quanh gánh và một cặp xe
trâu. Đến năm 1973, ngoài nhiệm vụ nhận hàng trên huyện về bán và phân phối cho
dân, cửa hàng còn thu mua tre, nứa, gai và một số nông sản bán và cho huyện. Từ
năm 1976, cửa hàng thu mua thêm các loại nông sản như: vừng, lạc, đường mía,
mật, bán cho ngoại thương huyện Nghĩa Đàn. Do vậy, các mặt hàng phong phú hơn
có rượu, thuốc lá, bánh kẹo và nhiều sản phẩm đáp ứng người tiêu dùng.
2. Phát triển văn
hóa, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới
Qua phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, người nông dân tập
thể là chủ thể của quê hương, đang từng ngày xây dựng hợp tác xã, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, công tác văn hóa, nâng cao dân trí là một yêu cầu khách
quan trong sự nghiệp xây dựng con người mới góp phần củng cố quan hệ sản xuất
mới.
Tuy là một xã miền núi, vùng sâu, vùng xa với nhiều dân tộc
ít người sinh sống, chậm phát triển cả về kinh tế, văn hóa, đời sống còn nhiều
khó khăn, sản xuất thuần nông song Đảng bộ, chính quyền và các hợp tác xã ở
Nghĩa Mai đã bước đầu chăm lo tới văn hóa, giáo dục, y tế nhằm nâng cao dân
trí, xây dựng người nông dân tập thể có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, trình độ văn
hóa ngày một nâng lên, tích cực tiếp thu khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất.
Nhân dân Nghĩa Mai sống với tinh thần nhân ái “mình vì mọi người” và “mọi
người vì mình”.
Các hoạt động văn hóa như tổ chức chiếu phim phục vụ nhân
dân không thu tiền, vận động các tầng lớp nhân dân mua sách, báo diễn ra thường
xuyên. Hợp tác xã trích quỹ văn hóa - xã hội cho các tổ chức nhà trẻ, lớp vỡ
lòng, đội văn nghệ và các phong trào ca hát trong Đoàn Thanh niên. Công tác bổ
túc văn hóa cho người lớn tuổi, đối tượng chủ yếu là cán bộ, đảng viên được duy
trì có nền nếp.
Công tác vệ sinh, phòng bệnh giai đoạn này cũng được chú
trọng. Đặc biệt, việc phòng và điều trị bệnh sốt rét thu được kết quả. Hơn 50%
hộ dân ngủ màn, đường làng ngõ xóm được phát quang, 305 số hộ có nhà vệ sinh và
dời chuồng trâu, bò xa nhà, nhất là bà con dân tộc Thanh và Thổ.
Phong trào thi đua yêu nước trong nhân dân cũng diễn ra sôi
nổi. Việc học tập các gương điển hình như “Gió Đại Phong”, “Sóng Duyên Hải”,
“Cờ Ba nhất”, và “Bắc Lý” được đông đảo nhân dân và nhà trường hưởng ứng bằng
những việc làm cụ thể trong sản xuất, công tác và học tập.
Như vậy, đến giai đoạn này nạn đói giáp hạt bị đẩy lùi, đời
sống nhân dân dần đi vào ổn định, trình độ dân trí được nâng cao. Xóm làng sôi
động, khí thế thi đua cần, kiệm, xây dựng hợp tác xã vững mạnh và hướng về miền
Nam ruột thịt đang đấu tranh kiên cường chống bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai
Ngô Đình Diệm.
3. Tăng
cường công tác quốc phòng, an ninh
Từ sau năm 1961, đi đôi với việc ra sức đẩy
mạnh sản xuất, củng cố và cải tiến quản lý hợp tác xã, Đảng bộ và chính quyền
xã Nghĩa Mai thường xuyên chăm lo công tác quốc phòng an ninh. Trong đó, ưu
tiên công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được coi trọng.
Quán triệt
cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ bản chất của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở miền
Nam; nhận rõ âm mưu, thủ đoạn phá hoại của chúng đối với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc; trách nhiệm và ý nghĩa thiêng liêng của miền Bắc đối
với miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào. Trên cơ sở đó, Đảng bộ
động viên toàn chi bộ, toàn dân nâng cao cảnh giác cách mạng, ra sức xây dựng
lực lượng dân quân du kích, công an làm nòng cốt cho phong trào toàn dân thực
hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa phương.
Công tác tuyển quân hàng năm đi vào nền nếp. Liên tục từ
năm 1960 đến năm 1964, xã đã hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân theo Luật Nghĩa vụ
quân sự. Trong giai đoạn này, việc khám, tuyển nghĩa vụ quân sự được tiến hành
một cách hết sức thận trọng. Vì vậy, những thanh niên trúng tuyển thực sự là
người khỏe mạnh, trình độ văn hóa từ lớp 2 trở lên. Họ là niềm tự hào không
những của gia đình mà còn là của cả tập thể. Công tác chính sách hậu phương
quân đội, chăm sóc các gia đình liệt sỹ, thương binh được triển khai được chu
đáo, kịp thời.
Phong trào huấn luyện quân sự, học tập chính trị trong dân
quân tự vệ ngày một sôi nổi. Các hợp tác xã đã lập quỹ quốc phòng, an ninh để
chu cấp kinh phí huấn luyện hàng năm cho lực lượng dân quân tự vệ.
Từ cuối năm 1962 trở về sau, dưới sự chỉ đạo của Huyện đội,
Ban Chỉ huy xã đội được củng cố và có nhiều hoạt động tích cực. Phương án đánh
địch, thả dán điệp, biệt kích của liên xã vùng Tây Bắc Nghệ An được thông qua.
Trong hai năm (1963 - 1964), lực lượng dân quân tự vệ đã triển khai, tập luyện
và diễn tập thực binh theo phương án mang lại hiệu quả thiết thực.
Năm 1963, từ nguồn ngân sách xã và huy động cử tri đóng
góp, xã đã xây dựng được trụ sở Ủy ban nhân dân xã nhà 6 gian làm bằng gỗ, lợp
tranh. Đây là một thành tựu quan trọng, cán bộ lãnh đạo đã có nhà kiên cố để
họp, chấm dứt thời kỳ mượn nhà dân để làm trụ sở.
IV.
ĐẢNG BỘ NGHĨA MAI LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1965
- 1975)
1. Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai vừa sản xuất vừa
chiến đấu, góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế
quốc Mỹ (1965 - 1968)
Ngày 5.8.1964, đế quốc Mỹ trắng trợn dùng máy bay phản lực
ném bom Vinh - Bến Thủy và vài nơi trên miền Bắc nước ta. Quân dân Bến Thủy đã
bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên và bắn bị thương nhiều chiếc khác trên miền
Bắc. Chiến công đầu tiên của quân dân Bến Thủy đã làm nức lòng quân dân toàn
tỉnh.
Bước sang năm 1965, chiến tranh lan rộng ra cả nước. Hội
nghị lần thứ 11 (khóa III) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (3.1956) xác định
rõ yêu cầu, nhiệm vụ của quân dân miền Bắc lúc này là: “Xây dựng miền Bắc
trở thành hậu phương vững chắc của cách mạng miền Nam, đồng thời bảo đảm đời
sống cho nhân dân và đáp ứng yêu cầu tại chỗ; đánh thắng chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ, tăng chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và cách mạng Lào”(1).
Dưới
sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Tuyên huấn Huyện ủy Nghĩa Đàn đã tổ chức tuyên
truyền sâu rộng đến các chi bộ và nhân dân nhằm vạch trần âm mưu, tội ác của đế
quốc Mỹ đối với nhân dân ta và khẳng định sức mạnh của nhân dân trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam mà đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Trong đợt tuyên truyền này, đảng viên và quần chúng nhân dân đã nhận thức
được sâu sắc hơn âm mưa của Mỹ và sức mạnh của nhân dân ta.
Sau sự kiện ngày 5.8.1964, nhân dân yêu chuộng hòa bình
trên toàn thế giới đã lên tiếng phản đối hành động xâm lược của đế quốc Mỹ đối
với Việt Nam. Nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ đã diễn ra ở nhiều nơi trên thế
giới, kể cả ở Mỹ. Trước tình hình đó, đế quốc Mỹ phải tập trung cho công tác
ngoại giao để trấn an dư luận thế giới. Vì thế, trong suốt 7 tháng sau đó,
chúng cho máy bay do thám chứ không ném bom bắn phá. Điều này đã làm cho một số
người nhầm tưởng là chiến tranh có thể không xảy ra nữa. Nhưng đến ngày
7.2.1965, Mỹ tiếp tục cho máy bay ném bom đảo Cồn Cỏ, thị xã Đồng Hới (Quảng
Bình), chính thức phát động cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất.
Liên tục những ngày sau đó, Mỹ đã cho nhiều loại máy bay
của lực lượng không quân, hải quân và tàu chiến đánh phá ác liệt suốt ngày đêm
ở hầu hết các vị trí quân sự, đầu mối giao thông và nhiều nhà máy, hầm mỏ, công
trình thủy lợi, bệnh viện, trường học trên miền Bắc nước ta.
Trước yêu cầu của tình hình mới, thực hiện chỉ đạo của
Trung ương, của lãnh đạo tỉnh và huyện, xã Nghĩa Mai đã khẩn trương chuyển mọi
hoạt động từ thời bình sang thời chiến, bố trí lại lực lượng hợp lý để vừa đẩy
mạnh sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do
bom đạn địch gây ra.
Tháng 12.1965, Nghĩa Mai đã tiến hành
Đại hội Đảng bộ lần thứ 9, nhiệm kỳ (1965 - 1967). Ban Thường vụ của nhiệm kỳ
này gồm:
1. Đồng chí Cao Văn Chúc - Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Nguyễn Văn Tương (12.1964 - 11.1965), Lê Minh
Hưng (12.1965 - 6.1968) - Trực Đảng
3.
Đồng chí Lê Hồng Phú - Chủ tịch Ủy ban hành chính
Chuyển mọi sinh hoạt từ thời bình sang thời
chiến
Sau
Đại hội, thực hiện chủ trương của cấp trên, Đảng ủy và chính quyền xã đã khẩn
trương triển khai chuyển hướng mọi hoạt động sang thời chiến theo sự chỉ đạo
của huyện.
Trước
tiên là xây dựng trạm báo động phòng không. Do địa bàn của xã Nghĩa Mai khá
rộng và đồi núi phức tạp nên xã tổ chức thành hai trạm: trạm vùng trong và vùng
ngoài. Nhiệm vụ của trạm là thường xuyên cử người canh gác, lắng nghe tiếng máy
bay địch, đánh kẻng báo động. Tùy vào cự ly xa hay gần của máy bay mà cách đánh
kẻng khác nhau: theo quy định lúc bấy giờ khi máy bay ở gần, có thể ném bom vào
khu vực Nghĩa Mai thì đánh kẻng ngũ liên (đánh 5 hồi liên tục với nhịp đánh rất
nhanh: 3 tiếng một hồi). Ngoài ra, theo quy định, người trực phòng không có thể
báo động, nếu như nghe được kẻng báo động của các vùng khác xung quanh. Việc
thành lập các trạm báo động được triển khai nhanh chóng và hoạt động hiệu quả. Ngoài ra, một xóm có 1 chòi phòng không xây dựng trên các
cây cao, nguyên liệu được làm bằng tre.
Chòi phòng không có hai nhiệm vụ: vừa canh gác máy bay vừa là nơi đọc thời sự
hoặc thông báo cho nhân dân nghe. Xã cũng chỉ đạo lực lượng dân quân tự
vệ và Đoàn Thanh niên triển khai đào hầm, hào tránh bom đạn địch. Đây là công
việc tưởng chừng đơn giản nhưng thực sự gặp không ít khó khăn do nhiều người còn
chủ quan chưa tận mắt thấy sự tàn phá của bom đạn nên coi thường việc làm hầm,
hào. Do đó, mặc dù đã được tuyên truyền vận động nhiều lần nhưng tiến độ công
việc ở đây vẫn còn chậm. Tuy nhiên, khi cường độ đánh phá của máy bay Mỹ ngày
càng tăng thì việc đào hầm, hào đã trở thành nhiệm vụ không những của các hộ
gia đình mà còn là tránh nhiệm của các đoàn thể nhất là Đoàn Thanh niên lao
động Việt Nam, dân quân tự vệ. Ở Nghĩa Mai cũng như các nơi khác, hầm thường có
hai loại: hầm tròn như hồi đánh Pháp và hầm nửa nổi, nửa chìm hình chữ A hay
còn gọi là hầm Triều Tiên. Ban đầu tiêu chuẩn một nhà phải có một hầm đủ điều
kiện cho mọi người trú ẩn khi có máy bay. Lực lượng dân quân và Đoàn Thanh niên
có nhiệm vụ làm hầm, hào ở những nơi công cộng như chợ, trường học (kết hợp với
phụ huynh học sinh và giáo viên cùng làm) và giúp đỡ các gia đình chính sách
neo đơn. Ngoài ra, để đảm bảo cho nhân dân an toàn trong sản xuất, hầm còn được
đào rải rác trên các cánh đồng. Giữa các hầm giao thông để trong trường hợp bị máy
bay ném bom, mọi người có thể vận động chiến đấu đánh máy bay địch. Tất cả hầm
hào trong xã, tùy theo từng khu vực, đã tạo thành một hệ thống đủ điều kiện cho
các hoạt động học tập và sản xuất tương đối an toàn. Đến cuối năm 1965, khi
cuộc chiến tranh bước vào giai đoạn ác liệt thì các lớp học còn phải đắp thêm
bờ bao chung quanh cao khoảng 1- 1,5 m đủ đảm bảo an toàn khi máy bay địch ném
bom. Ngoài ra, trong phòng học còn phải đào hào giao thông để khi có sự cố các
em có thể thoát ra ngoài. Sau sự kiện máy bay Mỹ ném bom trường cấp 2 Hương
Phúc, Hương Khê - Hà Tĩnh, làm chết hơn 60 em học sinh và giáo viên thì việc
hoàn chỉnh hệ thống hầm, hào cho các em trở nên cấp thiết hơn.
Ngoài
việc đào hầm hào giao thông, thành lập các trạm phòng không, xã còn chuẩn bị
phương án sơ tán dân khi có chiến sự xảy ra nơi sơ tán, đội hình di chuyển,
người phụ trách…
Điều
quan trọng nhất lúc này là tăng cường lực lượng dân quân tự vệ. Theo kế hoạch
của Huyện đội Nghĩa Đàn thì tất cả lực lượng dân quân tự vệ phải được huấn luyện
kỹ thuật bắn máy bay bằng súng bộ binh. Hàng năm, hợp tác xã có nhiệm vụ cung
cấp lương thực và thực phẩm cho dân quân trong những ngày tập luyện. Các đơn vị
xã và những vùng xung yếu thì mỗi hợp tác xã phải thành lập được một trung đội
tự vệ. Trung đội này được trang bị vũ khí bộ binh như súng trường quân dụng
K44, K57 nòng dài của Hunggari, những nơi địch có thể đánh phá thì trung đội
còn được trang bị các loại súng phòng không có tầm bắn cao hơn như đại liên
12,7 ly, 14,5 ly (2 nòng)… Khi cuộc chiến tranh trở nên ác liệt (vào giữa năm
1965) thì trung đội mạnh của các xã, các hợp tác xã đã tham gia trực chiến bắn
máy bay địch bằng súng bộ binh. Trung đội mạnh trực chiến của Nghĩa Mai hầu hết
là nam, nữ thanh niên trong xã tham gia. Họ được hợp tác xã cung cấp lương thực
theo quy định của Nhà nước: một mùa 120 kg thóc (ngang với tiêu chuẩn của lao
động loại A) mà không phải đi làm lấy điểm như các xã viên khác.
Đẩy mạnh sản xuất, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu
Từ
giữa tháng 3.1965, Mỹ tăng cường chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cùng với việc
leo thang đánh phá miền Bắc một cách dã man, đầu tháng 5.1965, hàng chục vạn
quân Mỹ và quân các nước chư hầu đổ bộ vào miền Nam, đẩy mạnh chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”. Đặc biệt từ cuối năm 1965 đến đầu năm 1966, Mỹ ồ ạt cho máy bay
đánh phá với dã tâm “Đánh cho miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”.
Để
khẳng định quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước, toàn miền Bắc dấy lên phong trào thi đua sôi nổi. Thanh
niên có phong trào “3 sẵn sàng”(1), phụ nữ có phong trào “ba đảm
đang”(2),
các phụ lão có phong trào “trẻ xông pha, già mẫu mực”, động viên con cháu tòng
quân, sẵn sàng chiến đấu và hăng hái sản xuất. Các em nhỏ có phong trào “nuôi
gà chống Mỹ”. Toàn dân có phong trào “sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi”, “vững tay
cày, chắc tay súng”. Toàn xã Nghĩa Mai đã tham gia các phong trào trên một cách
tích cực và hăng hái.
Cũng
như các địa phương khác, xã chỉ đạo bà con làm tốt công tác phòng, tránh địch
nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do địch gây ra. Trước mắt, xã
phát động nhân dân tiếp tục đào hầm, hào trong mỗi gia đình (hầm tròn, hầm chữ
A), đào hầm nơi công cộng như chợ, trường học, dọc các đường lớn, ngoài đồng
ruộng.
Sáng
ngày 23.5.1965, Mỹ cho nhiều tốp máy bay ập tới từ nhiều hướng ném bom khu vực
Tây Hiếu, Nghĩa Mai, Nghĩa Hòa, xưởng 250 B Phủ Quỳ, Trường Trung cấp nông lâm,
Trạm cây nhiệt đới Phủ Quỳ và xưởng chế biến lâm sản, Bệnh viện Phủ Quỳ. Nêu
cao tinh thần cảnh giác, quân dân Nghĩa Mai cùng với quân dân Nghĩa Đàn đánh
trả quyết liệt, cùng với đơn vị cao xạ 37 ly của bộ đội chủ lực bảo vệ thị trấn
Thái Hòa, các đơn vị trung đội mạnh trong khu vực đã chiến đấu ngoan cường bằng
súng bộ binh, làm cho các đợt ném bom của chúng bị sai mục tiêu khá nhiều. Trong khói lửa bom đạn, nhiều chiến sỹ đã dũng
cảm xông pha cứu người, tài sản và hàng hóa. Trong đợt ném bom này, giặc Mỹ đã
làm 70 người chết, hàng chục người bị thương, phá hỏng nhiều nhà cửa, tài sản
của nhân dân và Nhà nước.
Tại
Nghĩa Mai, vào lúc 16h, ngày 1.9.1965
(AL), máy bay Mỹ ném bom vào làng Nạn (nay là làng 3ª), làm chết hai
người (ông Hoàng Văn Nga và con ông Hoàng Văn Bá) và một người bị thương là ông
Cao Văn Thịnh; làm cháy hai nhà ông Hoàng Văn Nam và ông Lê Văn Chung; làm chết
1 con trâu của Hợp tác xã do ông Chung nuôi.
Tiếp
đó ngày 15.1.1966, vào lúc 12h30 phút, máy bay Mỹ ném bom vào rú Mồ tại làng
Bái 2 ( nay là xóm 5a) gần vị trí trường câó I Nghĩa Mai làm cháy nhà trường và
làm bị thương ông Nguyễn Văn Mai.
Trong
không khí sôi động chung của cả nước, Đoàn xã Nghĩa Mai đã tiến hành mở đợt
tuyên truyền trong đoàn viên, thanh niên về tội ác của giặc Mỹ và phát động
toàn xã hưởng ứng tham gia phong trào “ba sẵn sàng”. Vì thế, sau cuộc họp, đáp
ứng lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ quốc, của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu,
nhân dân Nghĩa Mai động viên con em lại
tiếp tục lên đường chống Mỹ cứu nước. Từ năm 1960 -
1975, xã Nghĩa Mai đã có hàng chục thanh niên lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc; có hàng trăm thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến phục vụ chiến
đấu bảo vệ quê hương, Tổ quốc.
Bên cạnh đó, nhân dân Nghĩa Mai tiếp tục bắt tay vào làm
thủy lợi, cải tạo đồng ruộng, đắp bờ vùng, bờ thửa để tiếp tục phát triển sản
xuất. Công tác thủy lợi là một trong những thành công trong phong trào phát
triển nông nghiệp ở Nghĩa Mai. Trong thời gian này, lực lượng lao động chính
phần lớn đã gia nhập quân ngũ hoặc tham gia trực chiến. Vì thế các hợp tác xã
đã huy động lực lượng trong đó chị, em phụ nữ, trung niên là lao động chủ yếu. Những
con mương, các đập hồ chính thường xuyên được nạo vét, khơi thông đồng thời xây dựng thêm đập
làng.... Hệ thống mương xương cá được các hợp tác xã giao cho các đội
sản xuất tự đảm nhiệm. Nhờ đó, mặc dù chiến tranh ác liệt nhưng diện tích canh
tác vẫn được đảm bảo.
Trong thời gian này, việc đưa các tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất cũng được đặt ra không những ở Trung ương (các viện nghiên cứu) mà còn rất
được khuyến khích ở các hợp tác xã. Ở Nghĩa Mai, phong trào làm bèo hoa dâu để
tăng lượng đạm cho lúa cũng được phát động rộng khắp. Hầu hết anh chị em đoàn
viên, thanh niên đều tích cực tham gia lực lượng chủ chốt của các hợp tác xã
trong lĩnh vực này. Việc cấy giăng dây thẳng hàng và sử dụng cào cỏ 64A cũng là
một tiến bộ đang được áp dụng rộng rãi trong giai đoạn này. Nhờ đó, bà con xã
viên đã giảm được khá nhiều công sức so với trước đây. Mặt khác, năng suất lúa
cũng tăng lên đáng kể, bình quân khoảng 3 - 4 tấn/ha. Với khẩu hiệu: “Thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, Nghĩa Mai đã làm tròn nghĩa
vụ giao nộp lương thực cho Nhà nước.
Công tác chăn nuôi còn gặp nhiều khó khăn do thiếu con
giống, nhất là giống lợn. Các hợp tác xã đã đầu tư cho trại chăn nuôi tập thể như: Hợp tác xã Phú
Thành có trại chăn nuôi dê lên tới hàng trăm con. Tuy vậy, do chưa có
nhiều tiến bộ trong công tác chọn giống lợn mới, bà con xã viên vẫn phải tiếp
tục chăn nuôi các giống cỏ, lợn nái và một số nơi đã có lợn Móng Cái nhưng chưa
nhiều. Ngoài ra, bà con trong xã còn nuôi gà thả trong vườn với các giống gà
cỏ, gà ri... nhưng năng suất sản xuất còn thấp. Thời kỳ này, do công tác thú y
chưa có khả năng đảm nhận việc phòng, trừ dịch bệnh nên rất hạn chế. Ở Nghĩa
Mai, chăn nuôi trâu, bò là một lợi thế nhưng chủ yếu tập trung ở Hợp tác xã
chăn nuôi gia đình không phát triển được. Tuy vậy, với tinh thần tất cả vì miền
Nam ruột thịt, hàng năm Nghĩa Mai vẫn đóng góp đầy đủ thực phẩm cho Nhà nước.
Giai
đoạn này, hợp tác xã tín dụng tổ chức đại hội nhiệm kỳ lần thứ 3 (1.1967 - 11.1973)
do ông Cao Bá Viện làm Chủ nhiệm. Đến 11.1973, Hợp tác xã tín dụng đại hội
nhiệm kỳ thứ 4 do ông Lê Hoa Xoan làm Chủ nhiệm nhưng giai đoạn này hợp tác xã
tạm dừng hoạt động. Mãi đến năm 26.06.1985, hợp tác xã tín dụng mới hoạt động
trở lại. Hợp tác xã mua bán nhiệm kỳ thứ 3 do ông Lê Văn Nại làm Chủ nhiệm
(1972 - 1973).
Ngày 17.7.1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng
bào và chiến sỹ cả nước nêu cao hơn nữa quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược,
Người cho rằng: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu
hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá,
song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến
ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ngày càng đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn.”(1)
Khẩu hiệu không có gì quý hơn độc lập tự
do” đã trở thành chân lý bất hủ, là nguồn cổ vũ động viên, là mệnh lệnh chiến
đấu cho cả dân tộc ta. Ở Nghĩa Mai lúc này, khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc
lập tự do” được phổ biến khắp mọi nơi, càng thôi thúc mọi tầng lớp nhân dân
tham gia chống Mỹ cứu nước.
Bước sang năm 1967 - 1968, cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc của đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt. Chỉ trong 8 tháng đầu năm 1967, tần suất
đánh phá đã tăng gấp 2 lần so với năm 1966. Đặc biệt, chúng tăng cường dùng bom
bi (loại bom đã bị cấm sản xuất và sử dụng) để đánh vào các khu dân cư, đoàn
xe, bến phà, trận địa phòng không, trường học, bệnh viện và chợ…
Chúng
cũng dùng máy bay thả thủy lôi xuống các cửa sông, cửa biển, thả bom nổ chậm
xuống các bến sông, các đoạn đường trọng yếu với ý đồ phá hoại các cơ sở cất
dấu hàng hóa, phương tiện chiến tranh, ngăn chặn đường tiếp tế của ta cho chiến
trường miền Nam.
Trước tình hình đó, tháng 12.1967, tại
nhà đồng chí Điều, làng Sưa Nghĩa Mai đã tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ 10,
nhiệm kỳ (1967 - 1968). Ban Thường vụ gồm các đồng chí:
1. Đồng chí Vi Đức Thành - Bí thư Đảng
ủy
2. Đồng chí Lê Minh Hưng - Trực Đảng
3. Đồng chí Hoàng Hữu Nghị - Chủ tịch
Ủy ban hành chính
Chiến tranh càng ác liệt thì tinh thần chiến đấu của nhân
dân ta càng lên cao. Cuối năm 1967, đầu năm 1968, Nghĩa Mai đã huy động hàng
trăm nam, nữ thanh niên đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Tất cả đều sẵn sàng
nhập ngũ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Lực lượng dân quân tranh thủ
thời gian, bất chấp nguy hiểm kết hợp với lực lượng Huyện đội tổ chức rà phá,
thu gom bom đạn chưa nổ, giải phóng các trục đường giao thông trong khu dân cư
và ngoài đồng để lấy đất sản xuất.
Cũng trong thời gian này, địch tạm ngừng ném bom, nhân dân
xã Nghĩa Mai cùng nhân dân trong huyện đã đổ ra đường, san lấp hố bom, khắc
phục hậu quả chiến tranh cho xe ra chiến trường, phục vụ kịp thời cho quân dân
ta ở miền Nam, nhất là chuẩn bị cho đợt Tổng tiến công và nổi dậy vào tết Mậu
Thân năm 1968.
Hoạt động văn hóa, xã hội
Mặc dù gặp vô vàn khó khăn do bom đạn chiến
tranh nhưng công tác y tế, văn nghệ, thể dục - thể thao xã nhà vẫn không ngừng
phát triển. Các lớp học được đắp lũy bảo vệ an toàn, học sinh đến trường đều có
mũ rơm, túi thuốc… Phong trào thi đua với Bắc Lý, tỉnh Hà Nam được phát động
rộng rãi. Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt luôn giữ vững, số học sinh các
cấp vẫn tăng. Tuy còn đơn sơ, thiếu thốn về điều kiện vật chất nhưng các hợp
tác đều đã xây dựng được nhà trẻ và lớp mẫu giáo, tạo điều kiện cho các em đến
trường và để bố mẹ các cháu an tâm sản xuất và chiến đấu
Phong trào vệ sinh phòng bệnh cũng được
đẩy mạnh. Trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, các đội cấp cứu, nhân viên
y tế của xã tuy chưa đáp ứng đủ về số lượng và trình độ chuyên môn nhưng tinh
thần phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc chiến đấu luôn đảm bảo tốt, nhờ đó mà công
tác phòng, chữa bệnh cho nhân dân có phần tiến bộ hơn trước. Để khắc phục tình
trạng thiếu cán bộ y tế, xã đã tiếp tục cử một số thanh niên đi học lớp y tá,
hộ sinh tại các cơ sở đào tạo của tỉnh.
Trong những năm tháng chống Mỹ đầy gian khổ,
phong trào văn nghệ không ngừng phát triển. Mặc cho mưa bom, bão đạn, lời ca,
tiếng hát của anh, chị em thanh niên Nghĩa Mai thường xuyên cất lên trong các
buổi lao động sản xuất, trong các buổi liên hoan tiễn đưa bạn bè, đồng chí ra
trận. Nội dung các bài hát chủ yếu ca ngợi quê hương, đất nước, ca ngợi lãnh
tụ; hát về chiến tranh, về miền Nam yêu dấu đang ngày đêm chiến đấu hy sinh.
Tinh thần “tiếng hát át tiếng bom”, tạo cho người dân nỗ lực tiến công
cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì Việt Nam thống nhất.
Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh nhưng mỗi khi có đoàn văn công về biểu diễn
nhân dân đi xem rất đông. Âm nhạc đã tạo ra sức mạnh cho nhân dân, góp phần làm
nên những chiến công tuyệt vời của tuổi trẻ Việt Nam trong những tháng năm lịch
sử này.
Năm
1966 -1968, Nghĩa Mai là một trong những đơn vị trung chuyển lương thực thực
phẩm phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chủ yếu tập trung tại làng Nạn
3 kho, làng Đồn 2 kho, làng Cáo 1 kho, làng Bái 2 kho, làng Bui 2kho) và hàng
ngàn tấn lương thực. Dân và quân trong xã hăng hái làm nhà kho, bốc xếp và bảo
vệ kho lương thực.
Năm
1967 -1968, xã nhà đón nhận hai đơn vị quân đội về an dưỡng tại làng Sào (nay
xóm 4) và làng Vịn (xóm 9). Xã nhà cũng có thêm một số hoạt động quyên góp ủng
hộ rau, củ quả cho hai đơn vị. Từ tháng 8.1968 đến tháng 12.1968, xã tiếp tục
đón nhận sư đoàn 304 về an dưỡng và sinh hoạt ở nhà dân trong xã.
Công tác xây dựng Đảng và các tổ chức quần
chúng
Công tác xây dựng Đảng ở Nghĩa Mai có nhiều
tiến bộ, biểu hiện ở số lượng quần chúng đã được giới thiệu kết nạp Đảng. Trong
gian khổ, hy sinh, người đảng viên luôn giữ vai trò tiên phong, gương mẫu trong
mọi hoạt động. Đa số các đảng viên được giao nhiệm vụ đều sẵn sàng nhận lệnh và
quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh ngay
khi đang làm nhiệm vụ. Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, Hội mẹ chiến sỹ, Hội
Phụ lão… đã làm tốt chức năng của mình, góp phần to lớn vào cuộc chiến đấu
chống Mỹ.
2. Nghĩa Mai
khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng hậu phương, góp phần đánh thắng cuộc chiến
tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ (1969 - 1972)
Tranh thủ thời gian Mỹ ngừng ném bom, nhân dân miền Bắc tập
trung phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường chi viện cho miền Nam. Thực hiện
chủ trương của Trung ương Đảng và các Nghị quyết, Chị thị của Tỉnh ủy Nghệ An,
Huyện ủy Nghĩa Đàn, ngay sau ngày địch ngừng ném bom miền Bắc, Đảng bộ và nhân
dân Nghĩa Mai đã tranh thủ thời gian, thời cơ hòa bình đẩy mạnh mọi mặt công
tác, tập trung chủ yếu vào hai mũi tiến công chính: khắc phục hậu quả chiến
tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, mở mang thủy lợi; làm tốt công tác sẵn
sàng chiến đấu.
Tháng
2.1969, Đảng bộ xã Nghĩa Mai đã tiến hành đại hội lần thứ XI, nhiệm kỳ (1969 -
1973). Ban Thường vụ gồm các đồng chí:
1. Đồng chí Cao Văn Chúc - Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Cao Văn Lục
(12.1969 - 5.1970), Nguyễn Đình Liên (6.1970
- 4.1973) - Trực Đảng
3. Đồng chí Hoàng Hữu
Nghị (3.1971), Cao Văn Lục (4.1971 - 4.1973) - Chủ tịch Ủy ban hành chính
Khôi phục
và phát triển sản xuất: Trên mặt trận sản xuất và thủy lợi: giai đoạn này, hợp tác xã giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất nông
nghiệp, làm ra nhiều sản phẩm vừa phân phối cho xã viên vừa thực hiện nghĩa vụ
thuế đầy đủ cho Nhà nước để nuôi quân. Xã chỉ đạo các hợp tác xã huy
động lực lượng dân quân, xã viên ra đồng phục hồi diện tích bị hoang hóa trong
chiến tranh; tu bổ các công trình thủy lợi và làm thủy lợi nội đồng để phục vụ
cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp ngay từ vụ Đông - Xuân
(1968 - 1969). Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của thủy lợi và kiến thiết thủy
lợi nội đồng với việc thâm canh tăng năng suất cây trồng, trong những năm 1969
- 1972, Nghĩa Mai đã tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của tỉnh, huyện để tiếp tục
tu sửa một số kênh mương dẫn nước.
Trải qua một quá trình phấn đấu không ngừng, Đảng bộ và
nhân dân Nghĩa Mai đã từng bước tăng cường cơ sở vật chất, các công trình thủy
lợi bị phá hỏng được phục hồi và làm mới, đồng ruộng được cải tạo thêm. Tiếp
tục thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp, các hợp
tác xã đã cho xã viên học tập Điều lệ Hợp tác xã mới, nhằm nâng cao ý thức làm
chủ tập thể trong lao động, quản lý đất đai, tư liệu sản xuất. Xã đã tích cực
đưa những giống mới, ngắn ngày có năng suất cao vào sản xuất như: NN5, NN8,
Trân Châu lùn… Bên cạnh đó, xã còn cho cải tạo các bờ ao nhỏ thành các dãy ao
lớn để đẩy mạnh chăn nuôi cá, vịt. Tiếp tục tăng cường áp dụng khoa học kỹ
thuật, đặc biệt là việc đẩy mạnh nuôi trồng bèo hoa dâu để tăng cường phân bón
cho đồng ruộng và cải tạo chất đất khi mà nguồn phân hữu cơ còn thiếu thốn.
Cũng như một số xã khác, ở Nghĩa Mai việc đưa bèo hoa dâu
vào sản xuất với mục đích là cải tạo đất, tăng cường đạm cho cây trồng cũng là
một cuộc đấu tranh tư tưởng trong Đảng, trong quần chúng nhờ đó việc áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quần chúng, nhờ đó việc mặt trận sản xuất nông nghiệp được tăng cường,
thúc đẩy năng suất lao động tăng cao, đời sống nhân dân bước đầu được ổn định.
Các hoạt động văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục có nhiều tiến bộ trong tổ chức
quản lý, chất lượng chuyên môn ngày được nâng cao. Phong trào văn hóa, văn
nghệ, thể dục - thể thao tiếp tục được phát huy cao độ để phục vụ tốt nhiệm vụ
chiến đấu trong tình hình mới.
Giai
đoạn này, hợp tác xã tín dụng nhiệm kỳ (1973 - 1975) do ông Lê Văn Hạ làm Chủ
nhiệm. Nhiệm kỳ thứ 5 (1975 - 1977) do ông Hoàng Văn Tư làm chủ nhiệm. Nhiệm kỳ
thứ 6 (1978 - 1980) do ông Trương Minh Hợp làm Chủ nhiệm.
Trong khi đồng bào Nghĩa Mai cùng đồng bào cả nước đang ra
sức thi đua sản xuất, chiến đấu và tiếp tục giành được những thắng lợi mới thì
nhận được tin Bác Hồ qua đời. Đây là một tổn thất vô cùng to lớn, một nỗi đau
thương vô hạn cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Dù đã ra đi nhưng Bác đã để lại muôn vàn tình yêu thương cho
toàn Đảng, toàn dân qua lời Di chúc thiêng liêng: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa,
nhưng nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Thực hiện Di chúc của Người, toàn Đảng, toàn
dân ta phấn đấu thực hiện thắng lợi lời dặn của Người trước lúc đi xa. Ngay sau
lễ truy điệu Người, biến đau thương thành hành động, toàn dân Nghĩa Mai ra sức
thi đua lao động sản xuất và chiến đấu. Công cuộc làm thủy lợi, giao thông, đẩy
mạnh sản xuất, chuẩn bị đối phó với âm mưu mới của địch được tiến hành khẩn
trương. Các ban, ngành từ xã đến các thôn, xóm đều tích cực phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật, phấn đấu tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, thực hiện
tốt 3 cuộc vận động của Trung ương Đảng: vận động lao động sản xuất; vận động
phát huy dân chủ, tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng.
Công tác
chiến đấu và phục vụ chiến đấu: Trước những diễn biến mới của tình hình đất nước, tháng 1.1970, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 18 chỉ rõ nhiệm vụ và yêu cầu đối với
miền Bắc: “Tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, khẩn trương có kế hoạch làm
tròn nghĩa vụ thiêng liêng của địa phương đối với tiền tuyến lớn và luôn sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu tốt, đánh bại âm mưu khiêu chiến vũ trang hoặc mở
rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai”.
Trên
cơ sở phương hướng và nhiệm vụ mà Đảng bộ huyện đề ra, trong ba năm (1970 -
1972), Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai đã ra sức phấn đấu khôi phục và phát triển
kinh tế toàn diện, trọng tâm là mở rộng diện tích canh tác trên cơ sở đẩy mạnh
công tác khai hoang, phục hóa, thâm canh tăng năng suất lúa, màu và cây công
nghiệp… Đồng thời, xây dựng lực lượng an ninh, quốc phòng vững chắc, sẵn sàng
chiến đấu và giành thắng lợi trong mọi tình huống. Tích cực động viên con em ra
tiền tuyến chiến đấu và phục vụ chiến đấu, hoàn thành hai nhiệm vụ chiến lược:
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện cho tiền tuyến miền Nam đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.
Lúc này, trên chiến trường Nam Lào, chúng ta đang giành
được những thắng lợi hết sức to lớn. Vì thế, để cứu vãn tình hình, tiếp tục gây
áp lực trên bàn đàm phán Hội nghị Pari, đế quốc Mỹ ráo riết tăng cường hoạt
động quân sự, chuẩn bị kế hoạch ném bom trở lại miền Bắc. Trước tình hình đó,
việc vận chuyển hàng hóa chi viện cho chiến trường của nhân dân ta ngày càng
khẩn trương hơn. Theo chỉ thị của cấp trên, ngoài lực lượng công an, bộ đội địa
phương, dân quân du kích, thanh niên xung phong, xã còn huy động thêm lao động
khỏe đi làm công tác đảm bảo giao thông, vận chuyển hàng hóa bằng mọi phương
tiện, thời cơ để có thể đưa được nhiều vũ khí, lương thực, thực phẩm vào chiến
trường lúc Mỹ ném bom trở lại miền Bắc, mặt khác, phải đảm bảo đời sống cho
nhân dân.
Trước nguy cơ “Việt Nam hóa chiến tranh” bị phá sản,
tổng thống Mỹ Ních - xơn vội vàng “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh ở miền Nam
và phát động chiến tranh phá hoại lần thứ 2 đối với miền Bắc. Khác với lần
trước, lần này chúng huy động lực lượng máy bay ném bom chiến lược hiện đại
nhất như B52, F111… để thực hiện những trận ném bom hủy diệt tàn bạo với quy mô
lớn, hòng làm lung lay ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
của nhân dân ta. Ngay từ năm 1969, Mỹ đã không ngừng tiến hành các hoạt động do
thám, khiêu khích bằng đường không và đường biển ở Nghệ An. Đến năm 1970, chúng
tăng cường hoạt động do thám, đánh bom vào một số điểm giao thông quan trọng và
tung nhiều đoàn thám báo, biệt kích vào phía Tây tỉnh Nghệ An.
Trước thủ đoạn mới
của địch, Trung ương, tỉnh, huyện đã kịp thời chỉ đạo nhân dân chuyển hướng các
hoạt động với các nhiệm vụ cụ thể: “Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, kịp thời chi
viện đầy đủ lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến; tổ chức phòng tránh, đánh
địch, hạn chế những tổn thất đến mức thấp nhất; giữ vững an ninh chính trị,
trật tự xã hội; làm tốt công tác tuyển quân, huy động đầy đủ nhân lực cho tiền
tuyến, thanh niên xung phong sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ; thường trực công
tác phòng chống thiên tai; tăng cường sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền;
đảng viên phải gương mẫu, tiên phong trong mọi công tác”.
Phát hiện được sự chuẩn bị mở đợt tiến công chiến lược lớn
vào đầu năm 1972 của quân dân miền Nam, từ cuối năm 1971, địch càng tăng cường
hoạt động trinh sát trên bầu trời và cho máy bay bắn lẻ từng đợt vào một số khu
vực cất giữ hàng hóa, vũ khí của ta dọc Đường 1A, 15A. Công tác chuẩn bị sẵn
sàng chiến đấu ở Nghĩa Mai được nâng cao, các phương án tác chiến cũng được
hoàn chỉnh thêm. Lực lượng vũ trang của xã được trang bị thêm phương tiện chiến
đấu. Các trạm gác báo động được tăng cường…
Công tác phòng không sơ tán, bảo vệ tính mạng và tài sản
của nhân dân được chuẩn bị chu đáo. Nhân dân được sơ tán xa các trục đường
chính, làm thêm hầm trú ẩn, hầm cất dấu lương thực. Các lớp học, trạm xá, nơi
sinh hoạt công cộng của cán bộ nhân dân được bổ sung thêm hầm, hào, lũy. Các
hợp tác xã tổ chức các đội chuyên làm hầm, hào để giúp người già neo đơn, gia
đình thương binh, liệt sỹ.
Từ tháng 9 năm 1972 đến tháng 1 năm 1973, xã đã tạo điều
kiện giúp đỡ chohai đơn vị k3 và k7, quản lý tù binh ngụy quyền khoảng 300 đầu
tiên tại trạm khr Ang (xóm 9), khoảng ba tháng sau đó chuyển sang khu vực khe
Đác Kha.
Tại Nghĩa Mai, ngày 22.12.1972, khoảng 1h sáng, máy bay B52
của Mỹ ném bom rải thảm tại khu vực làng Giàn, gần khu vực đại tu 267, làm cháy
1 nhà ông Vi Văn Mớ, làm chết bà Mớ và một ngừời cháu Vi thị Nhất 16 tuổi.
Ngoài ra, trận ném bom còn làm hư hại nhiều nhà xung quanh.
Cuối năm 1972, số vụ ném bom rải thảm bằng
B52 của địch tăng lên. Đế quốc Mỹ tập trung lực lượng không quân đánh phá thành
phố Hải Phòng và thủ đô Hà Nội, nhằm khuất phục ý chí chiến đấu của quân và dân
ta. Sau 12 ngày đêm chiến đấu, quân và dân Hà Nội đã bắn rơi 81 máy bay phản
lực Mỹ, trong đó có 34 chiếc B52, 5 chiếc F111 (máy bay cánh cụp cánh xòe bảo
vệ cho máy bay B52 - loại máy bay hiện đại nhất của không quân Mỹ lúc bấy giờ),
làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” khiến cho thần tượng “siêu pháo đài bay
B52” của không lực Hoa Kỳ sụp đổ.
Liên tục thất bại trên các mặt trận, ngày 19.12.1972, Mỹ
buộc phải ngừng ném bom ở Hà Nội, Hải Phòng và từ vĩ tuyến 20 trở ra, quay trở
lại bàn đàm của Hội nghị Pari. Ngày 15.1.1973, Mỹ chấm dứt sự can thiệp về quân
sự ở Việt Nam. Ngày 27.1.1973, Hiệp định Pari được kí kết. Theo Hiệp định, đế
quốc Mỹ và quân đội các nước chư hầu phải rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Tuy rút quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn sử dụng hệ thống ngụy
quân, ngụy quyền để làm công cụ phá hoại Hiệp định Pari. Chỉ sau mấy ngày kí
Hiệp định có hiệu lực, ngụy quyền Sài Gòn đã cho quân lính tấn công lấn chiếm
nhiều vùng giải phóng ở miền Nam. Trước tình hình đó, ngày 28.1.1973, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi nhân dân cả nước sẵn sàng chiến đấu và
khẳng định: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã giành thắng lợi”, đồng
thời cũng chỉ rõ: “Các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu phá hoại hòa
bình, ngăn cản con đường thống nhất, độc lập tự do của dân tộc ta”. Trung ương
kêu gọi đồng bào hai miền Nam - Bắc “Tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác,
củng cố những thắng lợi đã giành được,
hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.”
Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Đảng bộ và nhân
dân Nghĩa Mai lại tiếp tục khắc phục hậu quả chiến tranh, chi viện tối đa cho
miền Nam, góp phần “Đánh cho ngụy nhào”, thực hiện mục tiêu thống nhất
nước nhà.
3. Nghĩa
Mai hàn gắn vết thương chiến tranh, góp phần cùng nhân dân cả nước “Đánh cho
ngụy nhào” giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (1973 - 1975)
Thắng
lợi to lớn của quân và dân cả nước trong năm 1972 đã làm thất bại chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế
quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và
lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27.1.1973. Mỹ và các nước đồng minh buộc
phải rút quân về nước. Tuy vậy, Mỹ vẫn còn để lại cho ngụy quân, ngụy quyền
hàng ngàn máy bay, khối pháo, hàng trăm tàu chiến, hàng triệu tấn vật tư quân
sự và 25 ngàn cố vấn quân sự đội lốt dân sự để giúp đỡ và chỉ đạo ngụy quân,
ngụy quyền thực hiện âm mưu phá hoại hoà bình, hoà hợp dân tộc ở miền Nam. Thực
chất hành động đó của Mỹ là “Kéo dài Việt Nam hóa chiến tranh”. Còn ngụy quân,
ngụy quyền Sài Gòn thì thực hiện chiến dịch “Tràn ngập lãnh thổ”, tổ chức nhiều
cuộc hành quân càn quét, nhằm thu hẹp vùng giải phóng của ta.
Trước
âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai, ngày 28.1.1973, Trung ương Đảng ra lời kêu
gọi đồng bào cả hai miền Nam - Bắc tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng
cố những thắng lợi đã giành được, hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến
tới thống nhất nước nhà.
Thực
hiện lời kêu gọi của Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng,
chính quyền, Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn lãnh đạo nhân dân ra sức khắc phục hậu quả
chiến tranh, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện nhiệm vụ của hậu
phương, tạo thêm tiềm lực góp phần chi viện hiệu quả cho tiền tuyến lớn miền
Nam tiến lên thực hiện “Đánh cho nguỵ nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc”.
Từ
ngày 14 - 16.4.1973 đến 10.10.1974, Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn đã tiến hành hai kỳ
Đại hội đại biểu lần thứ XV và XVI(1). Thực hiện Nghị
quyết Đại hội các nhiệm kỳ, Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Đàn đã nỗ lực phấn đấu và
đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh.
Với tinh thần đó, tháng 4 năm 1973, Nghĩa Mai tiến hành Đại hội lần thứ 12, nhiệm kỳ (1973
- 1975) tại hội trường Ủy ban nhân dân xã . Đại hội đã bầu 9 đồng chí Ban Chấp
hành, trong đó 3 đồng chí Ban Thường vụ gồm:
1. Đồng chí Lê Minh Thư - Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Lang Văn Xàng - Trực Đảng
3. Đồng chí Cao Văn Lục - Chủ tịch Ủy
ban hành chính
Đến cuối năm 1975, Huyện
ủy Nghĩa Đàn có chủ trương hợp nhất các hợp tác xã nông nghiệp qui mô thôn xóm
thành hợp tác xã qui mô vừa. Do đó, Nghĩa Mai đã tiến hành hợp nhất 3 hợp tác
xã: HTX Cát Long, HTX Bình Long, HTX Giàn Thành thành hợp tác xã Lòng Thành;
hợp nhất 2 hợp tác xã Yên Bái và Bui Thai thành hợp tác xã Yên Vui. Còn lại giữ
nguyên 3 hợp tác xã Hưng Tiến 1, Hưng Tiến 2, Lai Châu. Như vậy, đầu năm 1976,
Nghĩa Mai có tất cả 5 hợp tác xã qui mô vừa
1. Hợp
tác xã Long Thành do ông Cao Văn Thâm làm Chủ nhiệm
2. Hợp tác xã Yên Vui do ông Lê Văn Dựa làm Chủ nhiệm
3. Hợp tác xã Hưng Tiến 1 do ông Hoàng Quốc Nghị làm Chủ
nhiệm
4. Hợp tác xã Hưng Tiến 2 do ông Nguyễn Văn Đệ làm Chủ
nhiệm
5. Hợp tác xã Lai Châu do ông Vi Văn Tưởng àm Chủ nhiệm
Giai đoạn
này, Hợp tác xã đã hoàn thành công trình thủy lợi đập Bui. Điều này, làm tăng
thêm lòng tin của nhân dân vào Đảng chính quyền và ban quản trị...
Nhờ áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, trồng những giống lúa có năng suất cao. Đồng thời, xã đã bố trí vụ mùa
hợp lý trên từng loại đất, nâng cấp các công trình thủy lợi, phát huy tối đa
nguồn nước ở các hồ đập nên vụ Đông trở thành vụ chính (150 ha trên đất hai
lúa), sản lượng lương thực đến năm 1975 là 1.500 tấn. Ngành chăn nuôi cũng có
bước phát triển, tổng đàn lợn 1975 là 1.700 con, trọng lượng xuất chuồng bình
quân năm 40 kg/ con, tổng đàn trâu bò năm 1975 là 1.220 con.
Tháng
3.1975, chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng, Huyện ủy Nghĩa Đàn chỉ đạo Ủy
ban hành chính huyện và các xã thành lập Ban chi viện chiến trường. Với
khẩu hiệu “Tất cả cho giải phóng miền Nam”, nhân dân toàn huyện đã hăng hái
hưởng ứng. Bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai ai cũng muốn đóng góp phần sức lực
của mình cho thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với tinh
thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, nhân dân Nghĩa Mai
đã đóng góp một số ngày công, gạo, thực phẩm, bộ đội cho các công trình thủy
lợi của huyện. Nhờ đó, qua các đợt tuyển quân, Nghĩa Mai luôn vượt chỉ tiêu
được giao, đảm bảo chất lượng và thời gian giao quân.
Ngày
30.4.1975, cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn đế
quốc Mỹ, lật nhào chế độ tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước. Trong chiến thắng chung của cả nước, Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Mai đã
đóng góp xương máu, công sức, trí tuệ, cùng nhân dân cả nước mở cuộc tấn công
“thần tốc, táo bạo và bất ngờ” đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch.
Nhìn
lại chặng đường 10 năm (1965 - 1975), Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn nói chung, Đảng
bộ xã Nghĩa Mai nói riêng đã lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chiến
lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chiến đấu đập tan các cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và chi viện cho tiền tuyến đánh giặc, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Cán bộ, đảng viên và nhân dân Nghĩa Mai đã quán
triệt sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng vào điều
kiện cụ thể của địa phương; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm, từng bước vượt qua khó khăn thử thách của cuộc chiến
tranh, giữ vững sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, từng bước phát triển kinh
tế, văn hóa, tích cực chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam,
giành thắng lợi hoàn toàn. Trải qua 10 năm chiến đấu, tổ chức Đảng ở Nghĩa Mai
đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành. Đảng bộ luôn làm tốt công tác xây
dựng, chỉnh đốn, phát triển Đảng cả về số lượng lẫn chất lượng. Thực hiện Chỉ
thị, Nghị quyết mới của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Nghệ An, đặc biệt là Nghị
quyết số 195 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng đảng viên, Chỉ thị số 192
của Ban Bí thư về việc đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng, Đảng bộ
xã Nghĩa Mai đã mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn thể đảng viên và
đông đảo cán bộ, xã viên hợp tác xã quan tâm tham gia góp ý kiến. Công tác phát
triển Đảng được quan tâm, Đảng bộ được tăng cường số lượng lớn đảng viên trẻ.
Đổi mới, xây dựng nội dung, chương trình sinh hoạt chi bộ Đảng, tổ Đảng gắn với
từng thời điểm cụ thể, từng nhiệm vụ chính trị của địa phương để tập trung lãnh
đạo có hiệu quả. Theo định kỳ 6 tháng một lần, Đảng ủy đều tiến hành sơ kết,
đánh giá rút kinh nghiệm và đề ra kế hoạch, nhiệm vụ cho thời gian tiếp theo.
Khi có điều kiện, Đảng bộ phân công cán bộ, đảng viên đi dự các lớp tập huấn do
tỉnh, huyện tổ chức và thực hiện các buổi báo cáo thời sự quán triệt Nghị quyết
Trung ương và cấp trên... trình độ lý luận và năng lực chuyên môn của cán bộ,
đảng viên được nâng lên rõ rệt. Kết quả được thể hiện rõ nét qua công tác lãnh
đạo, chỉ đạo điều hành và hoạt động của bộ máy lãnh đạo xã trong việc thực hiện
các nhiệm vụ trọng tâm của địa phương. Ngoài ra, Đảng bộ còn thực hiện nghiêm
túc phê bình và tự phê bình, làm trong sạch nội bộ Đảng, kịp thời uốn nắn và
nghiêm khắc loại trừ một số đảng viên biến chất ra khỏi hàng ngũ Đảng. Cán bộ,
đảng viên luôn đi đầu trong mọi lĩnh vực “Bám đội, lội đồng”, sâu sát vận động
bà con tích cực thực hiện các cuộc vận động lớn của Đảng và Nhà nước. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ, kết hợp với tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân là
những nhân tố quan trọng để Nghĩa Mai đạt được những thành tựu to lớn trong
suốt thời kỳ cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.
Phát huy cao độ những thành quả đã đạt được chính là tiền đề cơ bản, tạo ra
bước ngoặt quan trọng đưa Nghĩa Mai bước sang một thời kỳ mới trong bước đường
phát triển tiếp theo của lịch sử dân tộc - thời kỳ cả nước đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Chương 3
NGHĨA MAI TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU
CÙNG CẢ NƯỚC ĐI LÊN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(1976 - 1985)
I. NGHĨA MAI THỰC
HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨ II (1976 - 1980)
Tháng
12.1976, Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng được tiến hành trọng thể tại thủ
đô Hà Nội. Đại hội đã đề ra đường lối chung cho cách mạng Việt Nam - phát triển
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa và quyết định phương hướng, nhiệm vụ
của kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), khẳng định sự tất yếu của việc đưa cả nước đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Ngày nay, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực
hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh áp
bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống cuộc đời no cơm, ấm áo, ngày mai được
đảm bảo một cuộc đời văn minh, hạnh phúc...”
Hòa
chung với niềm vui đất nước thống nhất, ngày 1.1.1976, Thường vụ Tỉnh ủy hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ra thông báo đặc biệt về việc hợp nhất hai tỉnh thành
tỉnh Nghệ Tĩnh. Sự kiện này đã tạo ra thế và lực mới để Đảng bộ và nhân dân
Nghệ Tĩnh đẩy nhanh tốc độ phát triển nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trên
mảnh đất Xô viết anh hùng.
Thực
hiện đường lối do Đại hội lần thứ IV của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh Nghệ Tĩnh lần thứ I, Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn tiến hành ba kỳ Đại hội là
Đại hội XVII (19 - 21.6.1976), Đại hội XVIII (13 - 17.6.1977), Đại hội XIX (7 -
9.12.1979). Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn của huyện, các kỳ
Đại hội Đảng bộ huyện xác định: “Đẩy mạnh sản xuất và xây dựng kinh tế, ổn
định và đảm bảo đời sống cho nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển
cơ cấu kinh tế nông - lâm - công nghiệp trên địa bàn huyện. Tập trung mọi lực
lượng để sản xuất nông nghiệp toàn diện, vượt bậc. Thấu suốt quan điểm kết hợp
kinh tế với quốc phòng, xây dựng và bảo vệ đất nước, thường xuyên cảnh giác và
sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân, đấu tranh kiên quyết với những mặt tiêu cực trong kinh tế
và xã hội. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, liên tục phát động phong trào
cách mạng của quần chúng.”(1)
Trước
đó, tháng 8.1975, tại nhà ông Trương Minh Niêm (làng Cáo), Nghĩa Mai tiến hành
Đại hội Đảng bộ lần thứ 13, nhiệm kỳ (1975 - 1981).
Đại
hội đã bầu Ban Thường vụ gồm:
1.
Đồng chí Cao Văn Lục - Bí thư Đảng ủy
2.
Đồng chí Lê Văn Dựa (8.1975 11.1976), Lê Văn Niêm (12.1976 - 3.1981) - Trực
Đảng
3.
Đồng chí Hoàng Hữu Nghị (8.1975 - 4.1977), Lê Minh Hưng (5.1977 - 11.1977) -
Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND)
Quán triệt đường lối cách mạng chung của cả nước, các Nghị quyết của
Huyện ủy, Đảng bộ Nghĩa Mai đã căn cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương đề
ra các chỉ tiêu, biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế phù hợp,
từng bước ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.
1. Về kinh tế
Để
phát triển kinh tế, xã chủ trương củng cố quan hệ sản xuất, đẩy mạnh công tác
thủy lợi, tổ chức dồn dân, quy hoạch lại khu dân cư và đất sản xuất; tiến hành
công hữu đàn trâu; xây dựng quy mô hợp tác xã toàn xã... Thời gian này, cũng
như nhiều huyện trong tỉnh, Nghĩa Đàn coi công tác thủy lợi là mặt trận số một,
đây thực chất là cuộc cách mạng kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng đối với hoa màu
và cây công nghiệp. Mặt khác, đó là biện pháp tích cực để chống xói mòn, cải
tạo đất, môi trường và khí hậu. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy Nghĩa Đàn,
Nghĩa Mai đã huy động hàng ngàn ngày công lao động, hàng trăm tấn lương thực,
thực phẩm góp sức vào việc xây dựng các công trình thủy lợi trọng điểm của
huyện, của tỉnh và một số công trình trọng yếu của xã. Đảng ủy xã đã tiến hành chỉ
đạo nhân dân cải tạo đất để trồng ngô, sắn, khoai. Ngoài ra, nhân dân Nghĩa Mai
cùng với 2.617 người trong huyện Nghĩa Đàn tham gia công trường Vách Bắc - công
trình thủy lợi tiêu úng cho hai huyện Yên Thành, Diễn Châu. Nhờ làm tốt công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác cải tiến công cụ nên hầu hết số dân
công Nghĩa Mai tham gia trên các công trường đều hăng say lao động sản xuất,
hoàn thành tốt kế hoạch. Trong phong trào làm thủy lợi, hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp đã huy động lực lượng lớn lao động chính và một khối lượng lương
thực, thực phẩm, công quỹ phục vụ cho các công trường. Lực lượng lao động chủ
yếu được điều tiết từ hợp tác xã và các tổ, đội sản xuất. Lao động tại chỗ được
điều hành theo phương thức ghi công, chấm điểm, lao động trên công trường của
tỉnh, của huyện được cấp lương thực theo định mức do Nhà nước quy định. Ngày
công lao động trên các công trình thủy lợi, giao thông của các lao động cuối
năm được hợp tác xã chuyển về đội sản xuất thanh toán bằng thóc.
Khi
kinh tế xã từng bước ổn định, phong trào làm giao thông nông thôn, đào đắp thủy
lợi tiếp tục được phát động mạnh mẽ trong nhân dân. Đồng thời, các hợp tác xã
cũng mua sắm và sử dụng xe cải tiến, xe bò kéo thay xe cộ (bò lốp) để phục vụ
sản xuất nhằm đáp ứng đời sống cho nhân dân.
Cùng
với việc chỉ đạo công tác thủy lợi, Đảng bộ xã Nghĩa Mai còn quan tâm tới việc
vận động di dời dân để mở rộng diện tích trồng trọt. Trên cơ sở đó, xã Nghĩa
Mai cùng Nghĩa Khánh, Nghĩa Thuận, Nghĩa Thịnh tổ chức sản xuất, bố trí lại cây
trồng một cách hợp lý. Những kết quả đạt được trên đã phá vỡ nếp nghĩ khép kín
của người nông dân, mở ra khí thế mới và cách làm ăn mới.
Năm 1979, Huyện ủy Nghĩa Đàn đã thành lập 5 đoàn kiểm tra để hỗ trợ và
hướng dẫn 5 xã Nghĩa Mai, Nghĩa Yên, Nghĩa Minh, Nghĩa Thọ và Nghĩa Lạc tiến
hành thành lập hợp tác xã toàn xã. Đoàn công tác hỗ trợ xã Nghĩa Mai gồm:
1. Đồng chí Chu Đức Kỷ -
Cán bộ phòng Nông nghiệp huyện - Trưởng ban
2. Đồng chí Trương Văn
Lượng (Nghĩa Đức) - Ban viên
3. Đồng chí Nguyễn Văn Xích
(Nghĩa Thịnh) - Ban viên
4. Đồng chí Nguyễn Đình
Tùng (Nghĩa Thịnh) - Ban viên
5. Đồng chí Nguyễn Văn Quế
(Nghĩa Thịnh) - Ban viên
6. Đồng chí Vi Văn Lương
(Nghĩa Đức) - Ban viên
Với sự chỉ
đạo và hỗ trợ của cấp trên, tháng 12. 1979, hợp tác xã toàn xã ở Nghĩa Mai được
thành lập có tên gọi là Hợp tác xã Mai Sơn.
Năm 1980, Đại hội Hợp tác xã nông nghiệp Mai Sơn khóa 1 được tiến hành
với những nội dung:
1. Thống nhất chủ trương
công hữu đàn trâu
2. Bàn phương thức khoán
trong sản xuất hợp tác xã
3. Bàn kế hoạch sản xuất
năm 1980
4. Bầu Ban quản trị hợp tác
xã nông nghiệp khóa 1
5. Thống nhất tên gọi hợp
tác xã nông nghiệp toàn xã Nghĩa Mai có tên là Hợp tác xã Mai Sơn do ông Chu
Đức Kỷ làm chủ nhiệm (8.1979 - 8.1981).
Việc thành lập hợp tác xã qui mô toàn xã bước
đầu đã tạo ra diện mạo và sức sống mới trong sản xuất. Hợp tác xã xác định lại
vốn, tài sản, diện tích canh tác, lao động mà xã viên đưa vào hợp tác xã.
Phương án tổ chức đội sản xuất, đội kỷ thuật, tổ
ngành nghề có các tổ như: tổ khai thác gỗ, tổ mộc, tổ sản xuất vôi, tổ chăn
nuôi... Đặc điểm nổi bật trong phong trào phát triển kinh tế hợp tác xã toàn xã
ở Nghĩa Mai là công hữu đàn trâu. Hợp tác xã đã áp dụng các biện pháp kỹ
thuật vào sản xuất nông nghiệp và đưa những giống mới có năng suất cao hơn, vận
động bà con cấy thẳng hàng để làm cỏ sục bùn bằng cào cỏ 64A. Việc cải tạo
ruộng đồng cũng được đẩy mạnh, bờ vùng, bờ thửa được khoanh đắp để giữ nước và
tiện cho sản xuất. Vốn Nhà nước đầu tư cho sản xuất nông nghiệp lớn hơn so với
thời kỳ trước, sức dân bỏ ra khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích, làm thủy
lợi, giao thông và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cũng được đầu tư khá hiệu
quả nên kết quả sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển. Mặc dù đời sống của
nhân dân Nghĩa Mai có nâng lên nhưng những khó khăn về lương thực, thực phẩm và
hàng hóa khan hiếm vẫn còn tồn tại. Hơn nữa, việc nóng vội đưa hợp tác xã lên
quy mô khá lớn, vượt quá điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ quản lý
của cán bộ cũng làm cho thu nhập và đời sống của xã viên bị giảm sút. Trước
tình hình đó, Đảng ủy đã ra Nghị quyết phát động nhân dân trồng sắn, khoai để
chống đói. Thực hiện tốt chủ trương của hợp tác xã, sau khi gặt xong lúa vụ mùa,
nhân dân đã trồng khoai sớm. Do đó, nạn đói tháng 2, tháng 3.1979, nhân dân đã
có khoai thu hoạch để phục vụ cuộc sống.
Để
giữ ổn định sản xuất, đảm bảo đời sống cho nhân dân, xã đã kịp thời phát động
quần chúng nhân dân nhanh chóng khôi phục và hàn gắn những thiệt hại do bão,
lụt gây ra. Trong thôn xóm, các gia đình tương trợ nhau sửa chữa nhà cửa bị hư
hỏng, nhường cơm sẻ áo với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, giúp nhau vốn, nhân
công làm rau màu chống đói. Từ năm 1978 - 1979, Đảng ủy và nhân dân Nghĩa Mai
tiến hành mở rộng diện tích hai lúa, 25 ha màu và cải tạo một số cánh đồng.
Năng suất bình quân cả năm khá cao.
Phong
trào giao thông ở Nghĩa Mai trong giai đoạn này có nhiều chuyển biến tích cực.
Năm 1979, nhân dân Nghĩa Mai cùng với nhân dân huyện Nghĩa Đàn đã đào đắp được
gần 82/000m3 đất đá, huy động gần 540 ngày công tham gia làm đường
và cầu cống; xây dựng thêm một số tuyến đường mới...
Trong
hai năm (1979 - 1980), Đảng bộ xã đã có nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể để
khắc phục thiên tai, tiếp tục tổ chức lại sản xuất và đời sống cho từng hợp tác
xã cũng như từng xã viên, đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Do vậy, sản xuất nông nghiệp,
ngư nghiệp có sự chuyển biến tích cực. Phong trào tăng vụ, trồng xen, thâm canh
được đẩy mạnh. Xã đã chỉ đạo tích cực ứng dụng một số tiến bộ kỹ thuật như nuôi
bèo hoa dâu ở các khu vực ruộng nước để cung cấp thêm nguồn phân bón cho lúa,
đẩy mạnh chế biến và sản xuất phân xanh; đưa các giống lúa mới có năng suất cao
hơn và kháng bệnh tốt như: NN5, NN8, NN22, giống chống rầy nâu CR203, bào thai
lùn, giống chống đạo ôn IR1820 vào sản xuất. Vì thế, năng suất lúa tăng lên
nhanh chóng: bình quân 200 - 250 kg.sào. Điều này đã mở ra triển vọng mới cho
sản xuất nông nghiệp. Ngày công ăn chia nhờ đó cũng được nâng lên 1,0 - 1,2 kg
thóc/công, vì thế thu nhập của xã viên khá hơn trước. Bên cạnh đó, hợp tác xã
đều thực hiện phân công lại lao động, tổ chức các đội chuyên như trồng trọt,
chăn nuôi, đánh bắt thủy sản. Đến năm 1980, diện tích gieo trồng và tổng sản
lượng lương thực đều tăng, đời sống nhân dân được cải thiện một bước, các nghĩa
vụ đối với Nhà nước đều được nhân dân thực hiện nghiêm túc và đầy đủ. Các đội
chuyên thủy sản trong hợp tác xã nông nghiệp được củng cố và xây dựng. Công tác
trồng cây gây rừng, trồng rừng phòng hộ được xã hết sức chú trọng. Hợp tác xã
mua bán của xã thời kỳ này tuy còn một số hạn chế về năng động và tính sáng tạo
trong việc tìm kiếm nguồn hàng nhưng cũng đã có nhiều cố gắng trong việc thực
hiện chức năng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa ở cơ sở. Một số nhu yếu phẩm của
nhân dân được đảm bảo.
Đi
đôi với công tác đẩy mạnh làm giao thông, thủy lợi và trồng trọt thì ngành chăn
nuôi ở xã cũng có bước phát triển đáng kể. Sau khi chuyển đổi quy mô hợp tác xã
lên toàn xã, với ưu thế còn nhiều đồng cỏ để chăn nuôi tốt, hợp tác xã đã phát
triển đàn trâu, bò lên đến 200 con để vừa đảm bảo sức kéo, vừa có thêm phân bón
cho trồng trọt. Nhiều xã viên trong các bản làng đều có đàn trâu 4 - 5 con. Nhờ
vậy, tổng đàn trâu cả xã nâng lên gần 800 con.
Chăn
nuôi lợn vốn là thế mạnh truyền thống của bà con trong các thôn, bản. Phát huy
ưu thế, Hợp tác xã đã có trại chăn nuôi lợn trên 100
con (lợn nái, móng cái, lợn thịt). Hàng năm xuất giống cho nhân dân trong xã và
các xã bạn. Tuy nhiên từ lâu, ở đây bà con vẫn sử dụng các giống lợn
như: ỷ, cỏ, mẹo nên năng suất sản xuất thịt còn thấp và chưa tự túc được lợn
giống. Nhưng đến thời điểm này, đàn lợn được phát triển theo cả hai mặt về số
lượng, trọng lượng xuất chuồng và theo hướng tự túc một phần lợn giống bằng
cách cho phát triển mạnh đàn lợn nái và thử nghiệm một số giống lợn mới theo sự
chỉ đạo của tỉnh. Để làm được việc này, hợp tác xã chủ trương “Ai nuôi lợn nái
thì được ưu tiên canh tác thêm 1 sào ruộng tốt để sản xuất cung cấp thức ăn cho
lợn; còn lợn con thì hợp tác xã quản lý để phân phối lợn giống cho xã viên”.
Tính đến năm 1976, cả hợp tác xã đã có đàn lợn nái 60 con, hàng năm cung cấp
cho xã viên gần 800 con lợn giống. Các giống lợn mới khuyến khích du nhập để
thay thế dần lợn cỏ địa phương như: lợn lang hồng Móng Cái, lợn ỷ Thanh Hóa,
Mường Khương… Trước đây, trọng lượng xuất chuồng sau một năm chỉ có từ 40 - 45
kg.con thì nay tăng lên 60 - 70 kg/con. Điều này đã góp phần giúp Nghĩa Mai
hoàn thành nghĩa vụ thực phẩm cho Nhà nước hàng năm từ 40 - 45 tấn lợn hơi và
giao nạp cho xã từ 5 - 7 tấn để phục vụ các kỳ họp và đại hội các cơ quan, đoàn
thể trong xã.
Tuy
nhiên, do ảnh hưởng về sự cấm vận kinh tế của Mỹ, cơ chế bao cấp và sự độc
quyền lưu thông hàng hóa trong nước mà sau những thành tựu bước đầu, kinh tế
nước ta vốn lấy nông nghiệp làm chính, đã bắt đầu sa sút. Nhất là từ năm 1977
trở về sau, sự sa sút lại càng tăng lên do thiên tai thường xuyên xảy ra, trong
đó có nhiều trận lụt lớn như năm 1977, 1978, 1979.
2
Về văn hóa - xã hội
Hoạt
động văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Cấp ủy đã kịp thời tổ chức
học tập Chỉ thị số 214 của Ban Bí thư Trung ương và quyết định của Hội đồng Bộ
trưởng về công tác xây dựng nếp sống văn minh trong cán bộ đảng viên và nhân
dân. Hệ thống truyền thanh, nhà văn hóa, chiếu bóng, thư viện hoạt động đều đặn.
Phong trào văn nghệ quần chúng diễn ra sôi nổi. Anh, chị em vừa làm công tác
văn nghệ, vừa làm công tác thông tin, cổ động, tuyên truyền các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần động viên quần chúng phấn khởi lao
động sản xuất, xây dựng hợp tác xã. Xã đã xây dựng được quy ước nông thôn, quy
định về nếp sống mới trong việc ma chay cưới hỏi, bài trừ các hủ tục lạc hậu,
mê tín dị đoan...
Ngành
giáo dục phát triển về cả chất lượng và số lượng. Các cháu trong độ tuổi đều
được đến trường, bình quân ba người dân có một người đi học. Phong trào thi đua
“Hai tốt” (dạy tốt, học tốt) thường xuyên được phát động. Tỷ lệ học sinh đạt
tốt nghiệp cao (cấp I đạt 94%, cấp II đạt 89%, cấp). Công tác bổ túc văn hóa
luôn được các cấp ủy Đảng và chính quyền quan tâm. Mặc dù trong điều kiện vừa
khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa vượt qua những khó khăn do thiên tai xảy ra,
nhưng Đảng bộ và chính quyền các cấp đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng
trường lớp, phục vụ tốt hơn việc học tập của con em mình.
Trạm y
tế đã thực hiện tốt phong trào vệ sinh phòng bệnh nên không có dịch lớn xảy ra.
Toàn xã đã có giếng nước, nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh. Các cán bộ trạm y tế
không quản ngại vất vả, khó khăn, tìm nguyên liệu để sản xuất thuốc phòng tả,
phòng bại liệt cho nhân dân và xuống tận cở sở để làm tốt công tác tiêm phòng.
Một số bệnh như kiết lỵ, sốt xuất huyết đã được tập trung ngăn chặn, không cho
dịch bệnh lây lan. Sức khỏe nhân dân, nhất là phụ nữ và trẻ em được chăm sóc
tốt hơn. Việc trồng thuốc Nam được mở rộng. Toàn xã đã trồng được một diện tích
khá lớn với các loại thuốc như: hoài sơn, hương nhu, bạc hà... Trạm xá của xã
được xây dựng và bổ sung khá đầy đủ các trang thiết bị điều trị.
3. Về quốc phòng, an ninh và xây dựng Đảng
Thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới, tình hình mới, Đảng bộ
và Ban Chỉ huy quân sự xã thường xuyên chỉ đạo làm tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng và huấn luyện quân sự cho các lực lượng vũ trang trong xã. Cơ
quan quân sự và công an phối hợp xây dựng kế hoạch tác chiến, giữ gìn trật tự
trị an. Các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và nhân dân làm tốt chính sách
hậu phương quân đội. Lực lượng vũ trang đẩy mạnh phong trào thi đua quyết
thắng, gắn xây dựng lực lượng với làm kinh tế trên địa bàn, làm tốt công tác
quản lý quân dự bị động viên, sẵn sàng chiến đấu. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ
quốc được đẩy mạnh với sự tham gia của toàn dân, nòng cốt là lực lượng công an
và các tổ chức an ninh nhân dân, tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
thù địch, phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận chống các vụ việc
tiêu cực và tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Trong cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, nhân dân huyện
Nghĩa Đàn nói chung và nhân dân Nghĩa Mai nói riêng đã có những đóng góp xứng
đáng. Hàng chục con em trong xã đã hăng hái tòng quân chiến đấu và phục vụ
chiến đấu
Trong
công tác xây dựng, Đảng bộ Nghĩa Mai luôn tích cực thực hiện nhiệm vụ bồi
dưỡng, giáo dục kết nạp Đảng cho những đoàn viên, thanh niên ưu tú, công nhân
tiên tiến, xã viên giác ngộ và những cán bộ khoa học giàu nhiệt tình phục vụ
nhân dân. Trong 3 năm (1975 - 1977),
Đảng bộ Nghĩa Mai cùng thị xã Thái Hòa, Nghĩa Hưng, Nghĩa Lộc, Nông trường Cờ
Đỏ, Đông Hiếu, xưởng 250 B, chi bộ gạch ngói… được đánh giá là những đơn vị có
thành tích cao trong công tác phát triển Đảng.
II. THỰC HIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ MỚI TRONG SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP (1981 - 1985)
Thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai, tuy đã đạt được những
thành tựu nhất định nhưng ở Nghĩa Mai nói riêng và cả nước nói chung cũng nảy
sinh nhiều bất cập. Đó là sự mâu thuẫn giữa quy mô hợp tác xã bậc cao (toàn xã)
với năng lực quản lý của Ban Quản trị dẫn đến sự bất cập của cơ chế quản lý sản
xuất và phân phối trong các hợp tác xã. Mặt khác, giai đoạn này do sự cấm vận của Mỹ và những sai lầm trong
việc kéo dài cơ chế quan liêu bao cấp nên đời sống của mọi tầng lớp nhân dân
nói chung hết sức khó khăn. Trong khi đó, nền kinh tế thị trường vốn đã có ở
miền Nam đang ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh tế của cả nước. Một trong
những tiêu cực nảy sinh là sự bất hợp lý trong việc phân chia sản phẩm của hợp
tác xã theo công điểm và sự phân phối các hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết
yếu trong hệ thống thương nghiệp. Tất cả những điều đó ảnh hưởng đến tư tưởng
của người nông dân.
Để giải quyết tình trạng trên, sau khi làm thí điểm ở một số nơi, ngày
13.1.1981, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 100 về “Cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp”(1).
Chỉ thị nêu rõ 3 mục đích khoán sản phẩm: bảo đảm phát triển sản xuất và
nâng cao hiệu quả kinh tế; củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nông thôn; nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân, làm tròn nghĩa vụ
với Nhà nước. Cơ chế mới trong sản xuất nông nghiệp của Đảng đã góp phần tháo
gỡ sự bế tắc trong tình hình sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Chỉ thị 100 ra đời như một luồng gió
mới thổi vào nông nghiệp nông thôn. Do đó, thu hút sự tham gia của đông đảo bà
con nhân dân, các xã viên hợp tác xã hăng hái thực hiện. Đây là nhân tố mới
thúc đẩy sự phát triển sản xuất nông nghiệp.
Cuối tháng 3.1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng được tổ
chức tại Hà Nội đã tập trung đánh giá và rút ra nhiều bài học về quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn 1976 - 1980, đồng thời xác định rõ đường
lối kinh tế trong thời gian tới: tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp và sản xuất
hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng.
Kết hợp nông nghiệp, công nghiệp, hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một
cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý”(1).
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
hăng hái đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống. Tiếp theo đó, ngày 14 đến ngày
16.12.1982, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn lần thứ XX được tiến hành.
Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế, xã hội của huyện trong ba năm (1983
- 1985) là: “Tiếp tục cải tạo và phát triển nông nghiệp toàn diện, trọng tâm
là thâm canh cây lương thực, giải quyết một cách vững chắc về lương thực...
Đồng thời tận dụng khai thác kinh tế ở vùng bán sơn địa, bố trí cơ cấu hợp lí
vừa thâm canh cây lúa nước, vừa làm màu, cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày,
khoán đất cho xã viên, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ, lấy củi
làm hàng xuất khẩu, phát triển chăn nuôi toàn diện, kết hợp kinh tế với quốc
phòng. Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, nâng cao trình độ sẵn
sàng chiến đấu, tăng cường giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Đẩy mạnh sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục, y tế. Tổ chức ngày càng tốt
hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.(2)
Thực hiện
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và chủ trương của Huyện ủy Nghĩa
Đàn, Đảng bộ Nghĩa Mai qua các kỳ Đại hội, ngoài việc xem xét, đánh giá thực
lực của từng xã để từ đó triển khai thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần
Chỉ thị 100 của Trung ương, Nghĩa Mai đã giành thời gian cho việc bầu cử cấp ủy
và phân công nhiệm vụ cho các ủy viên, nhất là các vị trí chủ chốt.
Tháng 8.1981, Nghĩa Mai tiến hành Đại hội Đảng bộ lần
thứ 14, nhiệm kỳ (1981 - 1984). Ban Thường vụ gồm các đồng chí:
1. Đồng chí Lê Minh Thư - Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Hoàng Hữu Nghị - Trực Đảng
3. Đồng chí Cao Thanh
Kiểm (12.1977 - 1.1990) - Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
Dưới sự lãnh đạo của Đảng
ủy, Nghĩa Mai đã tổ chức nhiều cuộc họp từ cấp xã, hợp tác xã đến các đội sản
xuất nhằm quán triệt những nội dung, mục đích, yêu cầu của Chỉ thị 100 về khoán
sản phẩm đến nhóm người lao động trong nông nghiệp, đồng thời sắp xếp lại cơ
cấu cho hợp lý với yêu cầu tình hình mới.
Vận dụng linh hoạt những chủ trương của Chỉ thị 100, Đảng bộ, chính quyền,
Ban Quản trị hợp tác xã đã tích cực tạo ra yếu tố kích thích sản xuất phát
triển. Hợp tác xã chủ động giao khoán thêm số ruộng đất mà tập thể làm ăn không
hiệu quả cho xã viên sản xuất và sau đó chỉ thu sản phẩm theo định mức. Chủ
động bố trí lại cây trồng, mùa vụ, đẩy mạnh thâm canh, mở rộng diện tích lúa hè
thu trên diện tích có nước để tránh lụt bão và mở rộng diện tích hoa màu, trồng
xen gối vụ, tiến hành cải tạo đất đai để trồng sắn. Đặc biệt, giai đoạn này,
hợp tác xã mở rộng diện tích lạc và bước đầu có hiệu quả. Để phục vụ cho công
tác thu mua, công ty ngoại thương đã mở đại lý tại cửa hàng mua bán của xã.
Hàng năm, hợp tác xã đã nhập cho công ty ngoại thương hàng chục tấn lạc. Ngoài
ra, hợp tác xã còn thành lập ban bảo vệ thực vật, đội thú y để chăm sóc cây
trồng vật nuôi; hệ thống nhà kho, sân phơi cũng được xây dựng gồm 4 nhà kho
trung tâm và một số kho lẻ. Nếu như trong giai đoạn trước - thời kỳ hợp tác xã
qui mô thôn, tổ chức sản xuất tập trung thu toàn bộ sản phẩm về để phân phối theo
định suất thì đến giai đoạn này - hợp tác xã toàn xã chỉ tập trung quản lý và
điều hành sản xuất trên đất ruộng, còn đất nương rẫy hợp tác xã giao khoán diện
và thu sản phẩm (khoán trắng). Cùng với phát triển trồng trọt, hợp tác xã cũng
chú trọng đến công tác chăn nuôi trâu, bò cày kéo kết hợp với sinh sản, đẩy
mạnh chăn nuôi lợn. Phong trào công hữu đàn trâu, bò của Hợp tác xã Mai Sơn
tiếp tục được phát huy và được bà con tham gia tích cực. Nhà nào có trâu, bò
góp vào hợp tác xã được tính theo cổ phần của hộ xã viên. Ví dụ: một con trâu
định giá 50 đồng được chia thành 2 cổ phần: 20 đồng nộp vào hợp tác xã, 30 đồng
hộ có trâu được hưởng. Hợp tác xã sẽ thu tiền hộ không có trâu, bò để trả cho
hộ có trâu, bò. Trâu giao cho hộ chăn nuôi để làm sức kéo cho hợp tác xã, nếu
trâu cái sinh sản con thứ nhất thì hộ có trâu được hưởng, sinh con nghé thứ 2
thì hợp tác xã thứ sẽ giao cho hộ khác nuôi. Người nuôi trâu đực từ năm thứ 2
trở đi được mua một con nghé theo giá công hữu. Song song với phát triển sản
xuất chăn nuôi là việc mở mang thủy lợi bằng cách huy động sức dân đi làm kênh
mương dẫn nước về đồng ruộng, xây dựng trạm bơm điện. Xã Nghĩa Mai đã tiến hành
tu sửa và xây dựng được một số hồ đập như: khe cây Trôi, đập Đồng Tổi, đập Đá
Lẹp, đập Bui. Đây là biện pháp tích cực nhằm vực dậy nền kinh tế xã nhà bởi
Nghĩa Mai có nhiều diện tích gieo trồng phụ thuộc vào thiên nhiên.
Giai đoạn (8.1981 - 10.1984), Hợp tác xã Mai Sơn do
ông Lê Văn Kỷ làm Chủ nhiệm; giai đoạn
(10.1984 - 1986) do ông Hoàng Đình Thức làm Chủ nhiệm.
Ngày 20.07.1985, hợp tác xã tín dụng tái thành lập và
tiến hành đại hội lần thứ 5, nhiệm kỳ (1985 -1989 ) do ông Cao Văn Lục làm Chủ
nhiệm. Hợp tác xã mua bán nhiệm kỳ (1981 - 1987) do ông Lê Văn Tứ, Nguyễn Văn
Dung làm Chủ nhiệm.
Trong quá trình tiến hành khoán sản phẩm nông nghiệp,
hợp tác xã nông nghiệp Mai Sơn đã nghiêm túc thực hiện 8 khâu trong quá trình
sản xuất. Trong đó, 5 khâu thuộc về hợp tác xã nông nghiệp chịu trách nhiệm đầu
tư là: giống, phân bón, làm đất, phòng trừ sâu bệnh, thủy lợi; 3 khâu là do
người nhận khoán đảm nhận: gieo trồng, chăm bón và cuối cùng là thu hoạch và
giao nạp sản phẩm theo định mức. Hợp tác xã định trước lượng giống, phân bón,
thuốc trừ sâu bệnh trên từng loại cây trồng và từng loại đất cụ thể để đề ra
mức thu sản phẩm phù hợp cho từng loại ruộng. Ngoài ra, xã khuyến khích bà con
khai hoang, mở rộng diện tích trên những vùng đất hoang hóa, đồi núi mà không
phải nộp sản phẩm trong một thời gian nhất định để tăng thu nhập. Hợp tác xã
Nông thương tín đã tổ chức trồng 20 ha cà phê và trảu. Trước khi thực hiện cơ
chế khoán mới, hợp tác xã nông nghiệp chỉ huy động được 60 - 70% lao động chính
vào sản xuất tập thể với thời gian là 5 - 6 giờ/ngày và năng suất, chất lượng
lao động còn thấp. Việc thực hiện cơ chế khoán mới theo Chỉ thị 100 cùng với việc ổn định nghĩa vụ đóng góp, thu mua
theo hợp đồng hai chiều và giá thỏa thuận đã kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân,
lợi ích tập thể Nhà nước. Người lao động phấn khởi làm việc không kể giờ giấc và
quan tâm nhiều hơn đến chất lượng, hiệu quả lao động. Cùng với việc thực hiện
các chủ trương trên, việc điều chỉnh quy mô hợp tác xã và đội sản xuất cho hợp
lý được tiến hành tích cực, làm cho cán bộ quản lý hợp tác xã và các đội trưởng
có điều kiện bám sát ruộng đồng để chỉ đạo, hướng dẫn xã viên sản xuất tốt hơn.
Các hộ xã viên nhận khoán sản phẩm đã phát huy quyền làm chủ kinh tế của mình,
chủ động trong sản xuất để vừa hoàn thành vượt mức nhiệm vụ nhận khoán với hợp
tác xã, vừa tích cực phát triển kinh tế gia đình theo khả năng của mình khi
tiếp nhận thị trường.
Để đẩy mạnh tăng năng suất cây trồng, xã nhà luôn lấy
thủy lợi làm biện pháp hàng đầu. Trong điều kiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản về
thủy lợi của Nhà nước còn hạn hẹp, xã vẫn kiên trì, chủ động làm với phương
châm “nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ”. Ngoài ra, xã còn chủ trương khôi phục
và phát triển các ngành nghề truyền thống như nghề làm gạch, nấu vôi… Nhờ những
chuyển biến tích cực trong chỉ đạo kinh tế nói trên, mặc dù thời tiết không
thuận lợi nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn được cải thiện, đời sống nhân dân khá
hơn trước. Ngành chăn nuôi cũng từng bước trở thành ngành chính trong nông
nghiệp. Xã đẩy mạnh việc cải tạo giống lợn trên nền lợn Móng Cái và cách chăm
sóc. Hàng năm, công tác tiêm phòng dịch cho vật nuôi tổ chức tốt nên hạn chế
được dịch bệnh, bảo vệ và nâng cao sự sinh trưởng cho trâu, bò, gà, lợn... Do
đó, số lượng đàn gia súc, gia cầm liên tục tăng.
Các ngành nghề truyền thống như làm mộc, rèn, đan lát,
vôi, gạch.. cũng có sự phát triển, không chỉ phục vụ nhân dân trong xã mà còn
một số xã lân cận. Cửa hàng mua bán được
củng cố và phát triển. Các mặt hàng phân phối theo chế độ được giải quyết hợp
lý hơn, bước đầu đã có những biện pháp khai thác nguồn hàng cung ứng cho nhân
dân. Việc thu mua nông sản, trao đổi hai chiều mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Ngoài ra, cửa hàng còn sử dụng hình thức buôn bán khác như nhận cung ứng các
mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu sản xuất và đời sống ở mức lãi suất thấp (cày,
bừa, đồ gia dụng, dầu hỏa, xà phòng, muối, mắm...).
Tháng 10 năm 1983, để thuận tiện cho nhân dân trong xã
giao thương hàng hóa, chợ Nghĩa Mai chuyển đến khu trung tâm nay là khu vực
trường tiểu học Nghĩa Mai A.
Cuộc vận động xây dựng nếp sống mới, bài trừ hủ tục mê tín, dị đoan, văn
hóa phẩm đồi trụy và các tệ nạn xã hội được triển khai và thực hiện sâu rộng
trong đời sống xã hội ở địa phương. Phong trào văn nghệ quần chúng ở các làng,
xóm phát triển rộng khắp. Xã có đội văn nghệ riêng, đội thông tin cổ động, nhà
văn hóa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Các tiết mục
văn nghệ phong phú về thể loại, sinh động về nội dung đã tạo nên không khí vui
tươi phấn khởi góp phần xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh trong nhân dân.
Phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới được hưởng ứng sôi nổi, trở thành
phong trào quần chúng rộng rãi, từng bước làm thay đổi các tập quán lạc hậu
trong việc cưới, việc tang lễ.
Giáo dục có sự phát triển toàn diện và đồng đều. Số học sinh tiên tiến,
học sinh giỏi ở ba cấp học đều tăng. Trình độ đội ngũ giáo viên ngày càng được
nâng cao. Nhờ sự quan tâm của Nhà nước và các cấp chính quyền cùng với sự đóng
góp của nhân dân nên các trường học được xây dựng rộng rãi, khang trang hơn.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Vệ sinh phòng bệnh đã trở thành phong trào tự
giác của quần chúng. Công tác tiêm phòng dịch bệnh cho trẻ em được tiến hành
đúng định kỳ. Trạm xá của xã được mở rộng, đội ngũ cán bộ y tế được nâng cao về
số lượng lẫn chất lượng. Công tác kế hoạch hóa gia đình được tiến hành thường
xuyên ở các xóm trong xã, bước đầu giảm tỷ lệ tăng dân số từ 1,7% (năm 1982)
xuống còn 1,4% (năm 1985).
Song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, cấp ủy và cơ quan
quân sự tập trung chỉ đạo các phương án sẵn sàng chiến đấu, xây dựng và củng cố
lực lượng vũ trang địa phương. Trong các đợt tuyển quân, toàn xã đều hoàn thành
vượt chỉ tiêu, luôn quan tâm thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với thương
binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng và các cuộc ủng hộ đồng
bào, chiến sỹ biên giới. Cuộc vận động “Xây dựng lực lượng công an nhân dân
trong sạch, vững mạnh và đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc
trong tình hình mới” được phát động mạnh mẽ. Ban chỉ đạo xã tổ chức xây dựng và
phát động toàn dân thực hiện các phương án bảo vệ an ninh chính trị, an ninh
kinh tế, bảo vệ trật tự xã hội. Thực hiện đấu tranh chống trộm cắp, chống tội
phạm hình sự, xây dựng tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ cho lực lượng công an.
Công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức được
Đảng ủy thường xuyên quan tâm. Đảng ủy đã chỉ đạo học tập Chỉ thị số 33 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng về công tác bảo vệ Đảng trong tình hình mới. Qua đó,
mỗi cán bộ, đảng viên củng cố lập trường tư tưởng, nâng cao tinh thần cảnh giác
cách mạng, ý thức tổ chức, kỷ luật, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi sai
trái, củng cố tổ chức Đảng. Trong 5 năm (1981 - 1985), Đảng bộ và nhân dân xã
Nghĩa Mai đã nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, nắm bắt, vận dụng các chủ
trương, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền cấp trên vào điều kiện cụ thể của xã
và thực hiện một cách hiệu quả. Bằng việc tích cực tìm tòi, học hỏi và ứng dụng
nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật; quan tâm công tác giao thông, thủy lợi,
quy hoạch, cải tạo đồng ruộng, nhạy bén trước những đổi mới về cơ chế quản lý
kinh tế, nhất là sớm thực hiện chế độ khoán mới trong nông nghiệp đến việc chăm
lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ từ xã đến cơ sở Đảng và nâng cao chất
lượng đảng viên... Vì thế, Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Mai đã cơ bản thực hiện
tốt và đạt được những kết quả đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực. Tuy
nhiên, dưới ảnh hưởng của cơ chế, Nghĩa Mai vẫn còn nhiều khó khăn và thử
thách. Mô hình tổ chức và quản lý hợp tác xã nông nghiệp trong điều kiện mới
không mang lại kết quả như mong muốn. Quản lý và sử dụng 95% đất canh tác ở địa
phương nhưng ngoài nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước, các hợp tác xã chưa đảm bảo
được 50% thu nhập cho xã viên. Cơ chế quản lý còn xơ cứng, đơn điệu không tạo
ra được động lực thúc đẩy cho sản xuất.
Chương 4
NGHĨA MAI TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG ĐỔI MỚI
(1986 - 2015)
I. THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI (1986 - 1990)
Từ
sau năm 1975, trên con đường quá dộ tiến lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta gặp
muôn vàn khó khăn thử thách: Do những nhược điểm vốn có của nền sản xuất nhỏ,
lạc hậu cùng với việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp,
quan liêu; hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh biên giới củ những phần tử phản
động trong và ngoài nước gây nên lệnh cấm vận thương mại của Mỹ từ sau
(30.04.1975); mặt khác, do sự chỉ đạo, điều hành Nghị quyết số 28 - NQ/TW ngày
10.08.1985 của Bộ Chính trị về giá - lương - tiền và Quyết định số 01 - QĐ/HĐBT
ngày 13.09.1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc đổi tiền đã
làm cho nền kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân từng bước ổn định.
Thực
trạng đất nước những năm giữa thập kỷ 80 đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc
có ý nghĩa sống còn đối với nghiệp cách mạng của nước ta: Đó là phải có một sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược lịch sử để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng
bế tắc, tạo ra sự đột phá có ý nghĩa quyết định trên bước đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Điều đó đỏi hỏi Đảng ta cần phải có sự đổi mới một cách mạnh mẽ,
toàn diện từ tư duy lý luận đến chỉ đạo thực tiễn, trong đó vấn đề cốt lõi là
phải đổi mới tư duy kinh tế.
Trước
tình hình đó, từ ngày 15 -18.12.1986, diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, nhiệm kỳ 1986 - 1990 được tiến hành tại thủ đô Hà Nội: sau khi đã nhìn
thẳng vào sự thật của tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sau 10 năm tiếp tục
áp dụng cơ chế bao cấp đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó khẳng định sự đổi mới
nhận thức về mô hình kinh tế của chủ nghĩa xã hội nước ta: thừa nhận Việt Nam
có nền kinh tế nhiều thành phần; đổi mới về cơ chế vận hành nền kinh tế lấy: cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập
trung”, bao cấp, quan liêu để phát triển nền kinh tế hàng hóa mà trước mắt tập
trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Đây chính là bước đột phá vừa mang tính đổi mới vừa
mang tính lý luận thực tiễn ở một nước xã hội chủ nghĩa như nước ta.
Từ
ngày 25 - 28.9.1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn lần thứ XXI được
tổ chức. Đại hội đã đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện trên các lĩnh vực
(1983 - 1985) và đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu của nhiệm kỳ (1986 -
1988) là: “Tập trung sức cho sản xuất nông nghiệp, từng bước cân đối lương
thực, thực phẩm tạo vùng chuyên canh lớn về nguyên liệu chế biến nông sản rau
quả, hàng xuất khẩu. Nhanh chóng phủ xanh đất trống, đồi trọc, thực hiện giao
đất giao rừng, nông lâm kết hợp. Mở rộng phát triển tiểu thủ công nghiệp, kinh
tế hộ gia đình theo hướng phát triển mạnh cây cà phê, chăn nuôi. Xây dựng cơ
cấu kinh tế nông - lâm - công nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa(1).
Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội, Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn đã chỉ đạo nhân dân, phát huy lợi thế của huyện,
chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây con, nhất là đầu tư phát triển cây công nghiệp,
cây xuất khẩu, sản xuất sản phẩm hàng hóa đa dạng.
Trước đó, năn 1984, Nghĩa Mai tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ 15,
nhiệm kỳ (1984 - 1990). Ban Thường vụ gồm:
1. Đồng chí Cao Văn Lục
- Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Lê Văn Kỷ - Phó
Bí thư, Trực Đảng
3. Đồng chí Cao Thanh Kiểm - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Giai đoạn (1986
-1990), Hợp tác xã Mai Sơn do ông Hoàng Đình Thức làm Chủ nhiệm.
Hợp tác xã mua bán, nhiệm kỳ 8, giai đoạn
(1987 - 1988) do ông Trần Thế Tiến làm Chủ nhiệm. Nhiệm kỳ thứ 9 (1989 - 1990)
do ông Trần Thế Tiến làm Chủ nhiệm.
1. Về kinh tế
Trên
tinh thần quyết tâm thực hiện tốt các nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới, Hợp tác
xã Mai Sơn cho xã viên tiếp tục khai hoang phục hóa, gieo cấy hết diện tích,
đẩy mạnh, thâm canh tăng vụ, tăng cường đầu tư thêm phân bón cho cây trồng,
tưới tiêu hợp lý, làm tốt phòng trừ sâu bệnh.
Về
trồng trọt: Hợp tác xã Mai Sơn tiến hành chuyển đổi cơ cấu diện tích, mùa vụ,
cây trồng, chuyển một số diện tích mùa vụ mùa và hè thu sang trồng thử các
giống ngô, lạc bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Về
chăn nuôi: Thời kỳ này, do tác động tiêu cực của giá cả và khó khăn về thức ăn,
con giống nên ngành chăn nuôi có chững lại. Tuy vậy, nhờ sự nỗ lực của hợp tác
xã và nhân dân mà số lượng đàn lợn, trâu, bò vẫn ổn định, trong đó chăn nuôi hộ
gia đình đã có tiến bộ hơn về số lượng, giống lợn ngoại và lợn lai kinh tế được
tăng cường thêm. Chăn nuôi phát triển vừa tăng sức kéo, phân bón cho cây trồng,
đảm bảo nguồn thực phẩm và tăng thêm thu nhập cho nhân dân cũng như các hợp tác
xã.
Đảng
bộ và chính quyền xã chỉ đạo nhân dân tham gia phong trào trồng cây gây rừng.
Kết quả đã trồng được gần 500 ha bạch đàn, keo và tràm, phủ xanh đất trống đồi
trọc, làm cho môi trường xanh, sạch hơn và bước đầu tạo điều kiện để tăng thu
nhập cho nhân dân.
Sự tăng
trưởng trong sản xuất nông nghiệp của xã những năm qua là nhờ áp dụng chủ trương
“Khoán 100” của Đảng dựa trên cơ sở duy trì chế độ sở hữu tập thể về tư liệu
sản xuất và nhiều yếu tố của cơ chế quản lý cũ, người nhận khoán phải tuân theo
kế hoạch sản xuất, quy trình kỹ thuật, định mức chi phí và phân phối theo chế
độ công điểm của hợp tác xã. Vì thế, sau một thời gian áp dụng cơ chế “Khoán
100” đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm: ruộng khoán và mức khoán không ổn
định, không đồng đều, xã viên không làm chủ ruộng đất, kém phấn khởi, không đầu
tư thâm canh vì sợ hợp tác xã tăng mức khoán; hiện tượng khê đọng sản phẩm sau
một số năm thực hiện khoán sản phẩm trở nên nghiêm trọng...
Ngày
5.4.1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, chính thức thay “Khoán 100” bằng “Khoán 10”. Nội dung đổi mới cơ chế
quản lý nông nghiệp gồm ba điểm chính: quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, giao khoán ruộng đất ổn định dài hạn trong khoảng 10 - 15 năm, những
tài sản cố định mà hợp tác xã quản lý, sử dụng kém hiệu quả thì bán phá giá cho
xã viên; về quan hệ quản lý, tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm
cuối cùng đến hộ xã viên; về quan hệ phân phối, xóa bỏ hạch toán và phân
phối theo công điểm, xã viên chỉ có nghĩa vụ nạp thuế cho Nhà nước và quỹ cho
hợp tác xã, các hoạt động của hợp tác xã và xã viên đều thông qua quan hệ hàng
hóa - tiền tệ, hộ xã viên được quyền tự chủ về kinh tế. Cơ chế Khoán 10 một lần
nữa giải phóng năng lực sản xuất và sức lao động đối với nông dân, giải quyết
hợp lý mối quan hệ giữa ba lợi ích đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao
động, tạo động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thực
hiện Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị, xã không chỉ giao khoán trên đất ruộng
mà còn tiến hành giao khoán cho nông dân bảo vệ, khai thác đất đồi, đất rừng từ
20 đến 30 năm; Xã chỉ đạo các hộ nhận đất đồi, đất rừng trồng các loại cây như:
lạc, đậu, hồ tiêu, cà phê, trẩu, lát, tre muồng... khuyến khích phát triển
ngành tiểu thủ công nghiệp.
Dưới
sự lãnh đạo của Thường vụ Đảng ủy và sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân, Ban Khoán
10 của hợp tác xã được thành lập. Ban Khoán 10 của hợp tác xã đã nhanh chóng
điều tra, phân loại ruộng đất, định mức sản lượng khoán hết sức công phu, chu
đáo và thật sự dân chủ công khai. Các loại đất như đất khoán cơ bản, đất dự
phòng đều được thể hiện trên biểu đồ chung. Việc phân loại hộ xã viên, khẩu cơ
bản, khẩu ăn cũng được khảo sát chặt chẽ, lập danh sách và thông qua Hội nghị
xã viên ở từng đội sản xuất và xóm. Do tác động của cơ chế Khoán 10, sản xuất
nông nghiệp ở Nghĩa Mai trong những năm 1988 - 1989 có nhiều chuyển biến tích
cực. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần này tiếp tục khẳng định sự ưu việt của cơ
chế khoán là đã phát huy tốt sự chủ động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân,
tập trung và huy động tiềm năng của nông dân cho sản xuất nông nghiệp, đưa nông
nghiệp phát triển đúng hướng.
Bảng
thống kê hộ khẩu 16 đội sản xuất của Hợp tác xã Mai Sơn (12.1986)
Đội
|
Số hộ
|
Số khẩu
|
HTX
|
|
1ª
|
38
|
263
|
263
|
|
1b
|
35
|
204
|
168
|
|
2ª
|
28
|
186
|
159
|
|
2b
|
25
|
235
|
192
|
|
3
|
68
|
372
|
369
|
|
4
|
76
|
386
|
328
|
|
5
|
75
|
403
|
349
|
|
6
|
62
|
344
|
234
|
|
7ª
|
39
|
203
|
197
|
|
7b
|
32
|
182
|
165
|
|
8
|
37
|
223
|
209
|
|
9
|
35
|
191
|
189
|
|
10
|
35
|
203
|
195
|
|
11
|
20
|
166
|
111
|
|
Quỳnh Yên
|
28
|
164
|
|
|
Quỳnh Bảng
|
24
|
114
|
|
|
Bảng
thống kê tình hình sản xuất, chăn nuôi qua các năm (1985, 1986, 1987)
TT
|
Năm 1985
|
Năm 1986
|
Năm 1987
|
Diện tích gieo trồng
|
268 ha
|
250,2 kg
|
299, 7 ha
|
Tổng sản lượng
quy ra thóc
|
304.704 kg
|
211.976 kg
|
380.626 kg
|
Lúa
|
270.735 kg
|
198.128 kg
|
295.515 kg
|
Lạc
|
39.150 kg
|
25.120 kg
|
31.845 kg
|
Vừng
|
|
2930 kg
|
|
Trâu
|
|
208 con
|
190 con
|
Giao cho nhà nước
|
87.327 kg
|
56.342 kg
|
110.739 kg
|
Thuế
|
52.997 kg
|
44.941 kg
|
57.087 kg
|
Phần của xã viên
|
188.193 kg
|
107.089 kg
|
211.276 kg
|
Giá trị một công
|
0,8kg
|
0,64 kg
|
0,7 kg
|
Tổng thu nhập
|
851.995 đồng
|
1323108 đồng
|
331.320 đồng
|
Tích lũy xây dựng
cơ bản
|
94.765 đồng
|
171.566 đồng
|
|
2. Văn hóa, giáo dục - y tế
Công tác giáo dục luôn được Đảng bộ và chính
quyền xã quan tâm đúng mức. Trường tiểu học và trung học cơ sở phát triển đồng
đều, con em đến tuổi đều được đến trường. Chất lượng dạy và học ngày càng nâng
cao. Tỷ lệ lên lớp, tốt nghiệp hàng năm đạt 80 - 90% trở lên. Đảng viên chi bộ
trường tiểu học đã phát huy tính tiên phong, gương mẫu trong việc giảng dạy,
tham mưu cho Đảng ủy, chính quyền, các ngành trong việc xây dựng cơ sở vật chất
trường học cũng như việc kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc giáo
dục các em học sinh về đạo đức, học tập văn hóa.
Công
tác y tế kế hoạch hóa gia đình: Hàng năm, xã đều tổ chức các cuộc vận động sinh
đẻ có kế hoạch, đặt vòng tránh thai cho chị em phụ nữ. Các biện pháp xử lý vi
phạm kế hoạch hóa gia đình bắt đầu được áp dụng. Đội ngũ làm công tác y tế của
xã đã nỗ lực trong công tác khám, chữa bệnh và phòng chống nhiều dịch bệnh nguy
hiểm như: dịch sốt rét, ho gà, sởi...
3. Về quốc phòng, an ninh
Lực
lượng dân quân tự vệ hàng năm được triển khai huấn luyện đúng thời gian, đạt
yêu cầu. Công tác huy động thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự và giao quân
hàng năm đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Trên cơ sở phát động quần chúng xây
dựng “khu dân cư an toàn làm chủ”, tổ chức hòa giải mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân, hạn chế dần các đơn thư khiếu kiện vượt cấp xã đã giải quyết tốt các vụ
việc xẩy ra trên địa bàn.
Phong
trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc và trật tự an toàn xã hội ngày càng đi
sâu vào lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ nên đã phát huy tác dụng, góp
phần ổn định xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế,
xã hội của địa phương.
4. Công tác xây dựng Đảng, chính
quyền và các đoàn thể
Trong
5 năm đầu thực hiện sự nghiệp đổi mới, công tác cán bộ của Đảng bộ có nhiều
lúng túng. Cán bộ, đảng viên được rèn luyện và trưởng thành trong hai cuộc
kháng chiến có phẩm chất đạo đức và tư tưởng vững vàng nhưng sức khỏe giảm sút,
năng lực, trình độ không đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới. Một số cán bộ trẻ
chưa có kinh nghiệm dẫn đến một số ngành, đoàn thể cấp xã và nhiều chi bộ thôn
thiếu cán bộ nòng cốt, chủ trì. Trước tình hình đó, Đảng ủy đã động viên các
đồng chí đảng viên là cán bộ quân đội, các ngành về nghỉ hưu tham gia công tác.
Xuyên suốt hai nhiệm kỳ đại hội khóa 15, 16 của Đảng bộ là các đợt học tập
triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và các Nghị quyết
của Ban Chấp hànhTrung ương của Đảng, Tỉnh ủy, Huyện ủy. Với nhận thức: “phát
triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, Đảng bộ đã thường
xuyên quan tâm đến công tác xây dựng Đảng trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng
và tổ chức.
Quán
triệt sâu sắc Chương trình 146 của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn Đảng bộ, chi bộ
trong sạch vững mạnh và Chỉ thị 355 của Bộ Chính trị về phân loại đảng viên,
công tác đánh giá, phân loại tổ chức Đảng và đảng viên luôn được gắn liền với
các tiêu chí do Trung ương đề ra. Do đó, bước đầu cán bộ, đảng viên đã nhận
thấy năng lực và phẩm chất của mình qua các đợt bình xét công khai, dân chủ và
xây dựng.
II. NGHĨA
MAI THỰC HIỆN ĐỔI MỚI THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI CỦA ĐẢNG (1991 - 1995)
Từ
ngày 24 - 27.6.1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng được tiến
hành tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã tổng kết, đánh giá những kết quả bước đầu
của việc thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn 1986 - 1990 và đề ra
phương hướng, nhiệm vụ cho chặng đường 1991 - 1995. Đại hội đã thông qua “Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”. “Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000”, lấy chủ nghĩa Mác - Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Đại hội VII được
xem là đại hội của “trí tuệ, đoàn kết và đổi mới”.
Ngày
21.8.1991, trong kỳ họp thứ XI, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa VII đã quyết định tách tỉnh Nghệ Tĩnh thành hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh như trước năm 1976. Đây là giải pháp phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chủ động quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội trong từng địa phương.
Thực
hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Nghệ An,
trong hai ngày 9 và 10.1.1992, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn lần thứ
XXIII được tiến hành tại nhà văn hóa huyện. Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ (1988 - 1991), đồng thời đề ra phương
hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ (1991 - 1995) là: phấn đấu tạo bước chuyển biến mạnh
mẽ về kinh tế - văn hóa - xã hội, giữ gìn trật tự kỷ cương pháp luật, ổn định
chính trị, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân. Phấn đấu xây
dựng Nghĩa Đàn thành huyện giàu về kinh tế, mạnh về an ninh quốc phòng(1).
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng bộ xã Nghĩa Mai lần thứ XVI đã được tiến hành tại hội
trường Ủy ban nhân dân xã. Đại hội thảo luận đánh giá kết quả trong nhiệm kỳ
qua và đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới. Đại hội xác định: tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, từng bước bê tông
hóa các công trình thủy lợi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, tăng tỷ lệ giống lai Trung Quốc, mở các lớp khuyến nông, đẩy mạnh thâm
canh lúa và tập trung phát triển sản xuất vụ đông, nhất là cây ngô, khoai lang,
khuyến khích phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Chăm lo phát triển lĩnh vực
văn hóa - giáo dục - y tế, đầu tư đúng mức cho quốc phòng - an ninh, giữ vững
an ninh, trật tự thôn xóm. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục đội ngũ
đảng viên, xây dựng, quy hoạch đội ngũ cán bộ kế cận và chăm lo xây dựng các
đoàn thể quần chúng, không ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng
quê hương Nghĩa Mai ngày càng văn minh, giàu đẹp. Ban Thường vụ nhiệm kỳ (1991 - 1994) gồm:
1. Đồng chí Hoàng Đình Thức
(5.1994), - Bí thư Đảng ủy.
2. Đồng chí Cao Minh Duyên -
Thường Trực, Thư ký HĐND
3.
Đồng chí Cao Văn Dũng - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND
Tiếp
đó, cuối năm 1994, đồng chí Hoàng Đình Thức được bổ nhiệm lên nhận nhiệm vụ ở
Huyện ủy Nghĩa Đàn. Đảng bộ xã Nghĩa Mai. Ban Thường Đảng ủy xã giai đoạn (1994
- 1996) gồm các đồng chí:
1. Đồng chí Lê Văn Kỷ - Bí thư Đảng ủy
2.
Đồng chí Cao Văn Dũng - Phó bí thư - Chủ tịch UBND
3. Đồng chí Cao Minh Duyên - Trực Đảng
Thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ, cấp ủy Đảng, chính quyền và hợp tác xã nông
nghiệp đã chỉ đạo quyết liệt, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, nhằm từng
bước thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đặt ra. Xác định đúng cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, bố trí mùa vụ thích hợp, theo dõi diễn biến của thời tiết, áp dụng
khoa học kỹ thuật, đưa giống mới vào sản xuất. Đồng thời, từng bước đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế trong sản xuất cả quốc doanh và tập thể, quan tâm đến kinh
tế hộ gia đình. Việc giao quyền sử dụng đất cho hộ nông dân theo Nghị định số
64 của Chính phủ và tăng cường các biện pháp thâm canh, ứng dụng rộng rãi những
tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là tiến bộ sinh học vào sản xuất, như: đưa
giống lúa CR203, lúa tạp giao vào thay thế dần giống lúa NN8, chỉ đạo đa dạng
hóa cây trồng, mở rộng diện tích các loại cây ăn quả nhanh chóng được triển khai và thực
hiện có hiệu quả. Năm 1995, diện tích trồng lúa cả năm là 550 ha, tổng lương
thực quy ra thóc đạt 2.650 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 450kg/năm.
Năng suất lúa cả năm đạt 8 tấn/ha. Việc giao đất, giao rừng cho nhân dân mở
rộng sản xuất đã tạo được sự chuyển biến quan trọng theo hướng kết hợp nông -
lâm nghiệp. Chính quyền đã làm tốt công tác quy hoạch, tổ chức cho nhân dân
nhận khoán đất rừng, đất đồi, chuyển đổi, cơ cấu lại giống cây, giống con thích
hợp với từng vùng để thành lập trang trại. Việc giao đất, giao rừng cho nhân
dân được tiến hành tích cực, trồng rừng hàng năm đạt chỉ tiêu kế hoạch được
giao. Xã thường xuyên có kế hoạch ươm trồng giống cây tập trung, cây phân tán,
tích cực thực hiện chủ trương đấu thầu trồng cây dài hạn. Các mô hình trang
trại bước đầu đã hình thành, mang lại hiệu quả kinh tế cao, từng bước khẳng
định tiềm năng phát triển kinh tế đồi rừng phát triển nông nghiệp toàn diện
trên địa bàn xã. Chăn nuôi tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Đàn trâu, bò
tăng lên 1.920 con, tăng 4 lần so với năm 1975; đàn lợn 1.570 con với trọng
lượng xuất chuồng bình quân hàng năm đạt 65kg.
Các
hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ được đầu tư
phát triển sản xuất theo hướng bám sát thị trường nông thôn, lấy phục vụ nông
nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của nông dân là chính, tạo điều kiện và có chính
sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp theo mô hình kinh tế hộ, nhóm
hộ. Một số làng tiểu thủ công nghiệp đã hình thành. Nhiều hộ gia đình cũng đã
đầu tư hàng chục triệu đồng phát triển các nghề mới như: xay xát, đập bột, làm
bún, làm giò chả, sửa chữa cơ khí, điện dân dụng... Năm 1995, toàn xã đã có 10
máy xay xát, 5 xe ô tô công nông, 300 xe bò lốp. Giá trị tổng sản lượng công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng lên hàng năm. Bằng nguồn vốn tự có của Hợp
tác xã nông nghiệp Mai Sơn đã xây dựng được trạm biến thế tại xóm 9 và trạm bơm
nước tại xóm 8 với tổng số vốn là 32 triệu đồng, vố nguồn vốn dân đóng góp xây
dựng đường dây diện 04, phục vụ sinh hoạt cho các xóm 8, 9, 3c, 7a, 7b, 3ª.
Tháng
10.1991, trụ sở Ủy ban nhân dân xã từ vùng rũ Mồ (làng Nạm) chuyển về vùng
trung tâm hiện nay.
Các
hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế cũng có những bước tiến đáng kể. Phong trào
văn nghệ, thể dục - thể thao được duy trì và phát triển. Ngoài hoạt động văn
nghệ trong các trường học, Đoàn Thanh niên xã cũng thường xuyên được tổ chức
sôi nổi các hoạt thể thao như bóng đá, bóng chuyền… Đặc biệt, vào những dịp lễ,
tết, ngày Quốc khánh 2/9, cùng với đồng bào cả nước, hoạt động văn hóa văn nghệ
của nhân dân Nghĩa Mai diễn ra phong phú sôi nổi và mang ý nghĩa sâu sắc. Toàn
xã có 200 máy thu hình, 500 đài radio. Từ đó, đời sống tinh thần của bà con
được nâng lên rõ nét.
Các
chế độ chính sách đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sỹ được
quan tâm đầy đủ, kịp thời đã khơi dậy tình cảm “uống nước nhớ nguồn” cho các
thế hệ trẻ. Những ngày lễ, tết Nguyên đán, ngày 27/7 hàng năm, ngoài quà của
Nhà nước, xã còn trích một phần ngân sách mua thêm đường, sữa, hoa quả, bánh
kẹo động viên thăm hỏi các gia đình chính sách. Những việc làm đó không những
thể hiện trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ trong việc đền “ơn đáp nghĩa” mà còn
khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể xã đối
với những gia đình có công với đất nước.
Trạm
y tế xã đã làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, không ít
bệnh nhân không có điều kiện chữa chạy đã được khám, chữa bệnh tại nhà. Hàng
năm, trạm đã chữa bệnh cho hàng trăm lượt người, điều trị hiệu quả cho hơn 100
bệnh nhân. Việc khám thai định kỳ và hộ sinh được tiến hành với các phương tiện
mới. Các bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, bệnh tả đã được phát hiện sớm và điều
trị kịp thời, không để thành dịch. Số hộ gia đình có giếng xây, nhà vệ sinh
nhiều hơn trước.
Đầu
những năm 90 của thế kỷ XX, thực trạng giáo dục gặp nhiều khó khăn. Học sinh ở
các cấp bỏ học nhiều, giáo viên thừa buộc phải điều chuyển hoặc phải nghỉ hưu
sớm theo chế độ. Trước thực trạng đó, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ 4 (khóa VII) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo và Chỉ
thị số 16 ngày 4.6.1993 của Tỉnh ủy về chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết của Trung ương, công tác giáo dục huyện Nghĩa Đàn nói chung và xã Nghĩa Mai
nói riêng được củng cố lại về số lượng trường, lớp, học sinh, chất lượng dạy và
học. Khuyến khích học sinh bỏ học trở lại trường, đẩy mạnh công tác phổ cập
tiểu học trên địa bàn huyện và xã. Nghị quyết đã đề ra phương hướng khắc phục
khó khăn, tiếp tục đổi mới, điều chỉnh, củng cố và phát triển các ngành, cấp
học, coi trọng việc phổ cập cấp I, xóa tái mù chữ, nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh và trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cho người lao
động. Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện ủy, đội ngũ cán bộ, giáo
viên ở các trường trong xã đã khắc phục khó khăn, phấn đấu dạy tốt, học tốt.
Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” được triển khai trong tất cả các
trường học, tạo thành phong trào thi đua rộng khắp toàn ngành. Năm 1995, Nghĩa
Mai đã xây dựng 20 phòng học cấp I, 10 phòng học cấp II được ngói hóa, khang
trang, sạch đẹp với số vốn đầu tư là 670 triệu đồng. Trường cấp I, cấp II của
xã 10 năm liền đạt danh hiệu trường tiên tiến của huyện và tỉnh. Hàng năm,
Nghĩa Mai có 10 - 15 em thi đậu vào các trương Trung cấp, Cao đẳng và Đại học.
Thực
hiện Chỉ thị 135/CT - TT, Chỉ thị 406/CT - TT của Thủ tướng Chính phủ về an
ninh quốc phòng, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được tích cực triển khai.
Các tổ an ninh xóm được thành lập và hoạt động có hiệu quả. Công an xã được bổ
sung thêm công an viên và sự phối hợp của công an chuyên trách huyện. Công tác
thanh tra nhân khẩu, hộ khẩu được thực hiện nghiêm túc, hợp tình và đúng luật.
Lực lượng dân quân tự vệ Nghĩa Mai với số lượng đông đã làm tốt chức năng và
nhiệm vụ của mình. Công tác đăng ký nghĩa vụ quân sự tuổi 17, khám tuyển giao
quân hành năm đạt chỉ tiêu, những trường hợp trốn tránh nghĩa vụ hay đào ngũ
đều được xã kiên quyết xử lý.
Để
đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của Đảng bộ các cấp, thực hiện
Nghị quyết Hội Nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Nghĩa Mai có nhiều chuyển biến tích cực. Sinh
hoạt Đảng được điều hành theo định kỳ, có nhiều đổi mới về nội dung và phương
pháp. Trình độ nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng
cao. Vai trò của tổ chức Đảng và đảng viên đối với hoạt động của địa phương
được thể hiện rõ nét. Nhiều cán bộ, đảng viên không những có năng lực công tác
mà còn vươn lên làm giàu chính đáng trong xây dựng kinh tế và phát triển quê
hương. Công tác bồi dưỡng và phát triển đảng viên mới trong đội ngũ đoàn viên
ưu tú và trí thức được xã hội quan tâm. Do vậy, tổ chức Đảng không ngừng lớn
mạnh. Thực hiện Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ quần chúng với nhân dân, các phong
trào “Nông dân thi đua sản xuất giỏi”, “Xóa đói, giảm nghèo”, “Đền ơn đáp
nghĩa”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”... được chỉ đạo chặt chẽ
và thu được kết quả tốt. Giai đoạn từ 1986 - 1995, Đảng bộ xã Nghĩa Mai luôn
đạt “Đảng bộ trong sạch vững mạnh”.
III. NGHĨA MAI TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THỰC HIỆN CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (1996 - 2000)
Từ
ngày 28.06 - 01.07.1996, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII được tiến hành
trọng thể tại thủ đô Hà Nội. Đại hội lần này quyết định đưa đất nước vào thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020. Đại hội đã nêu những
kinh nghiệm của 10 năm đổi mới và xác định: “Mục tiêu của công nghiệp hóa -
hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất
- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp”(1)
Năm 1995, thực hiện Nghị định 83/CP ngày 25.11
của Chính phủ, giải thể các thị trấn Nông trường Đông Hiếu, Cờ Đỏ, 1.5, 19.5 và
Tây Hiếu để thành lập 8 xã mới: Đông Hiếu, Nghĩa Hồng, Nghĩa Sơn, Nghĩa Bình,
Nghĩa Phú, Tây Hiếu, Nghĩa Hiếu, Nghĩa Tân, đưa tổng số Nghĩa Đàn từ 23 xã lên
tới 32 xã, 1 thị trấn, có 67 Đảng bộ, chi bộ trực thuộc với 7.100 đảng viên.
Trước
đó, từ ngày 25 - 26.01.1996, tại hội trường Ủy ban nhân dân huyện đã diễn ra
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn lần thứ XXIV, Đại hội đã thông qua
phương hướng, nhiệm vụ kinh tế của huyện nhà trong những năm 1996 - 2000 là: “Đẩy
mạnh cơ sở hạ tầng; tập trung phát triển nông - lâm- công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ thương mại; tổ chức sắp xếp lại cây, con theo hướng sản xuất
hàng hóa, hình thành vùng cây nguyên liệu rộng lớn, đa dạng, đáp ứng nhu cầu
của công nghiệp chế biến nông - lâm sản, tăng nhanh giá trị hàng hóa; đổi mới
cơ chế quản lí, mở rộng quan hệ hợp tác; kết hợp hài hòa các thành phần kinh
tế, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển. Trên cơ sở đó, từng bước đô thị
hóa Nghĩa Đàn, thực hiện xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống nhân dân, thúc
đẩy sự nghiệp văn hóa - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội, xây dựng Nghĩa Đàn vững mạnh toàn diện”(2)
Tháng 12.1996, Đại hội Đảng bộ xã Nghĩa Mai lần thứ 17 được khai mạc tại
Hội trường Ủy ban nhân dân xã với sự tham gia của 108 đảng viên trong toàn Đảng
bộ. Đây là đại hội quan
trong của xã, đánh dấu bước ngoặt trong thời kỳ đổi mới. Đại hội đã đề ra các
mục tiêu chính trong nhiệm kỳ tới là: xây dựng điện,
đường, đồng, đồi, phấn đấu đến 2000 mức tăng trưởng kinh tế từ 8 - 10%,
tổng thu nhập đạt từ 6 - 9 tỷ đồng; tổng đàn trâu bò 250 - 3500 con; tổng đàn
lợn từ 2000 - 3500 con; tổng đàn gia cầm 1,4 vạn con. Đẩy mạnh phát triển ngành
nghề dịch vụ, khuyến khích lao động đi làm ở ngoại tỉnh và lao động hợp tác
nước ngoài; xây dựng cơ bản, phấn đấu xây dựng đoạn đường bê tông ở các xóm,
hoàn thành trường cấp I, cấp II.
Đại
hội lần thứ XVII, nhiệm kỳ (1996 - 2000)
đã bầu ra Ban Thường vụ gồm:
1. Đồng chí Lê Văn Kỷ - Bí thư Đảng ủy
2.
Đồng chí Vi Văn Đua – Thường vụ Trực Đảng, Chủ tịch HĐND
3. Đồng chí Cao Văn Dũng - Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Giai
đoạn từ 1995 - 2006, Hợp tác xã Nông thương tín ở Nghĩa Mai đổi thành hợp tác
xã nông nghiệp Nghĩa Mai do ông Nguyễn Thế Văn làm Chủ nhiệm.
Nhiệm
kỳ (1995 - 2000), Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai đã đạt được những kết quả cụ
thể như sau:
1. Về kinh tế
Với
đặc thù là một xã vùng sâu, vùng xa, đất đai khô cằn, bạc màu, diện tích canh
tác ít, nhân khẩu đông, cơ sở vật chất thiếu thốn, quỹ vốn nghèo, lại là một xã
độc canh về nông nghiệp nên năm 1996, Nghĩa Mai đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi
vụ mùa, áp dụng cơ cấu khuyến nông, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Các giống lúa lai như: tạp giao, khang dân, kim cương được đưa vào sản xuất
trên 65% diện tích, năng suất lúa đạt 50 tạ/ha. Người dân Nghĩa Mai gắn bó với
cây mía từ khi người dân Hưng Lam, Hưng Phú, Hưng Tiến lên xây dựng kinh tế.
Trước khi nhà máy đường T& L được xây dựng, người dân ở đây đã có nghề kéo
che làm mật bán cho các cửa hàng. Khi nhà máy đường T& L được xây dựng, các
giống mía mới như: Rốc 10, MI được đưa vào thay thế giống mía F134, có năng
suất cao hơn. Đến nay, sản lượng mía Nghĩa Mai đứng đầu huyện Nghĩa Đàn, đứng
thứ 2 vùng nhà máy, bình quân sản lượng từ 40 - 50 ngàn tấn/năm.
Ngành
chăn nuôi cũng có bước phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Tốc độ tăng
trưởng khá, thu nhập từ chăn nuôi đạt 31,7 % trong nông nghiệp. Công tác tiêm
phòng dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được chú trọng, đã xuất hiện nhiều mô hình
chăn nuôi theo hướng hàng hóa. Tổng đàn trâu bò từ 988 con (năm 1996) tăng lên
1.130 con (năm 2000); đàn lợn từ 987 con (năm 1996) tăng lên 1.200 con (năm
2000), trong đó đàn lợn nái đạt 468 con, tổng đàn gia cầm ước đạt khoảng 25.000
con... Song song với chăn nuôi trâu, bò, ngành nuôi thủy sản cũng được xã chú
trọng phát triển.
Thực
hiện việc giao đất, giao rừng được triển khai theo Nghị định số 64 và Nghị định
số 02 của Chính phủ, xã đảm bảo nguyên tắc, đất, rừng, ao, hồ phải có chủ quản lý,
đóng thuế và làm nghĩa vụ đầy đủ cho Nhà nước. Xã tiếp tục thực hiện Chương
trình dự án 327 có hiệu quả. Đến năm 2000, đã trồng mới các loại cây có giá trị thu nhập cao như: lát hoa, keo, bạch đàn, trẩu,
sở. Các loại cây này bước đầu đã mang lại thu nhập, góp phần cải thiện đời sống
cho nhân dân.
Các ngành tiểu thủ công nghiệp (TTCN) và dịch
vụ phát triển còn hơi chậm, song bước đầu đã có sự chuyển hóa và có nhiều tiến
bộ. Năm 1996, xã có 27 hộ với 49 lao động tham gia ngành nghề TTCN và dịch vụ thì
đến năm 2000 xã có 107 hộ với 255 lao động tham gia, đồng thời có khoảng 30 lao
động thường xuyên đi làm ăn ở nước ngoài và các địa phương khác tạo ra nguồn
thu nhập cho gia đình. Đến năm 2000, thu nhập về TTCN và dịch vụ chiếm 4,3%,
tăng 11,8% so với năm 1996.
Phát
huy nội lực, tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên, xã Nghĩa Mai đã tạo ra được
nguồn thu ngân sách phục vụ cho chi phí hoạt động xã hội, đồng thời đầu tư xây
dựng cho cơ sở hạ tầng, phục vụ sản xuất và dân sinh, một phần đầu tư cho khoa
học kỹ thuật, đào tạo cán bộ và các hoạt động khác. Tổng thu nhập ngân sách năm
1996 là gần 800 triệu đồng, đến năm 2000 là gần 2 tỷ đồng. Tổng giá trị sản
xuất trong năm 2000 đạt 9,85 tỷ đồng, nhịp độ tăng trưởng kinh tế là 5,8%. Bình
quân lương thực đạt 18 kg/người/năm; trong đó thu nhập về trồng trọt chiếm
55,69%, thủ công nghiệp và dịch vụ 4,3%, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống 10%.
Thực
hiện phương châm “Đi lên từ điện, đi
ra từ đường”, trên cơ sở huy động nội lực của nhân dân và sự hỗ trợ của
Nhà nước, xã đã mở rộng mạng lưới điện phục vụ nhân dân một cách đầy đủ. Năm
1997, Ủy ban nhân dân xã đã xây dựng trạm điện và xây dựng 2 trạm biến thế 320 KV,
trạm bơm điện có công suất 3000 m3 với tổng giá trị 1.094 triệu
đồng. Hệ thống trường học, trạm xá cũng được nâng cấp và xây mới đáp ứng tốt
việc chăm sóc sức khỏe cả về thể chất lẫn trí tuệ cho nhân dân. Hệ thống kênh
mương dần được bê tông hóa, các trục đường giao thông được mở rộng và nâng cấp.
Hàng năm, xã đầu tư tu sửa, xây dựng 15 km đường đổ sỏi và hàng vạn ngày công
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng...
2. Giáo dục, y tế, văn
hóa
Trong
5 năm (1995 - 2000), công tác giáo dục ở Nghĩa Mai có nhiều thành tích nổi bật.
Năm 1998, Nghĩa Mai được công nhận hoàn thành phổ cập tiểu học, tỷ lệ học sinh
tốt nghiệp đạt 70%, xã có 8-10 em đỗ vào các trường Đại học và Cao đẳng, Trung
học chuyên nghiệp. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân ngày càng
được chú trọng. Cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, xây mới 20 phòng học
cấp I và cấp II, 10 phòng học cho trường mẫu giáo; xây mới phòng kỹ thuật cho
trạm y tế; mạng lưới y tế từ xã đến xóm thường xuyên được củng cố, các chương
trình y tế Quốc gia, y tế cộng đồng, tiêm chủng được mở rộng nên đã ngăn chặn
được các dịch bệnh như sốt rét, bướu cổ, bệnh phong... Công tác dân số kế hoạch
hóa gia đình ngày càng tiến bộ nhờ sử dụng các biện pháp truyền thông, các cơ
chế chính sách về dân số phù hợp. Đến năm 2000, tỷ lệ phát triển dân số giảm
xuống còn 1,13% (giảm 0,22% so với năm 1996), tỷ lệ người sinh con thứ 3 là
28,4%, trong đó có 5 xóm không có người sinh con thứ 3.
Hàng
năm, các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao thường xuyên được
Nghĩa Mai tổ chức. Các phong tục lạc hậu, các tệ nạn mê tín dị đoan, bói
toán... được ngăn chặn, đẩy lùi. Phong trào xây dựng làng văn hóa mới ngày càng
được mở rộng. Tính đến năm 2000, xã đã có 52% hộ gia đình được công nhận là gia
đình văn hóa, 27% gia đình thể thao, 23/23 xóm đã có bản hương ước và có 1 làng
đạt làng văn hóa. Công tác chính sách xã hội thường xuyên được quan tâm, nhằm
đảm bảo các chế độ cho các đối tượng hưởng chính sách. Thực hiện Thông tư 18 và
Nghị định 28 CP của Chính phủ về việc giải quyết hậu quả chiến tranh, hàng năm,
xã đã tổ chức tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, đến năm 2000 đã cấp 22 sổ tiết
kiệm cho những gia đình thuộc diện chính sách, hỗ trợ kinh phí tu sửa và làm
nhà tình nghĩa cho 4 đối tượng, đã trích 52 triệu đồng trong ngân quỹ cho các
gia đình chính sách.
3. Công
tác quốc phòng an ninh
Công tác an ninh chính trị - trật tự an toàn xã
hội được giữ vững. Các tệ nạn xã hội từng bước được đẩy lùi, các vụ việc xảy ra
trong nội bộ được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Công tác tự quản ở các
xóm được tăng cường và hoạt động có hiệu quả đã góp phần hạn chế đơn thư vượt
cấp, đảm bảo sự bình yên trong làng xóm. Mặt khác, xã thường xuyên tăng cường
công tác quốc phòng. Việc gọi tuyển thanh niên nhập ngũ hàng năm đạt và vượt
chỉ tiêu trên giao. Huấn luyện nghiệp vụ cho lực lượng dân quân, tổ chức ra mắt
lực lượng dân quân theo pháp lệnh, thực hiện diễn tập làng xã chiến đấu kết hợp
với phương án A2 đạt kết quả khá.
4. Công tác xây dựng Đảng
Quán
triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, Chỉ thị 17 của Tỉnh ủy về xóa đơn vị
yếu kém, thực hiện cuộc vận động đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Ban Chấp hành Đảng
bộ đã chăm lo đến chất lượng sinh hoạt Đảng, uốn nắn sửa đổi về lề lối, tác
phong làm việc, tăng cường công tác kiểm tra và đặc biệt chú trọng đến chất
lượng sinh hoạt của chi bộ. Vì thế, chất lượng đảng viên được nâng lên. Qua
phân loại đánh giá hàng năm, đa số đảng viên có tư tưởng và lập trường quan
điểm vững vàng, đã xóa được chi bộ yếu kém. Công tác phát triển Đảng được coi
trọng, trong 5 năm đã bồi dưỡng và kết nạp được .... đảng viên mới.
Hoạt
động của các tổ chức quần chúng ngày càng được nâng lên, mọi tổ chức đều xác
định được hướng đi của mình. Các tổ chức xây dựng được quỹ vốn để hoạt động,
thực hiện đúng chức năng của mình, góp phần cùng Đảng bộ và nhân dân thực hiện
hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, phương hướng, nghị quyết Đảng bộ đã đề ra,
từng bước xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp hơn.
Tóm
lại, trong chặng đường gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 2000),
Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai đã giành được những thành tựu quan trọng trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng - an ninh.
Tuy nhiên, Nghĩa Mai vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế, yếu kém, gây cản trở
trong quá trình phát triển đi lên như: công tác lãnh đạo của Đảng, chính quyền
và hoạt động của các tổ chức đoàn thể chưa thực sự toàn diện và đồng bộ. Một số
cán bộ, đảng viên còn thiếu gương mẫu, ý thức chính trị chưa cao. Trong sản
xuất: việc đưa giống mới vào sản xuất và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật chưa rộng rãi. Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và việc chăn
nuôi theo mô hình kinh tế hàng hóa chưa phát triển mạnh. Lực lượng lao động còn
mỏng và sự đầu tư cho phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ
thương mại chưa cao. Việc đầu tư cho phát triển văn hóa, giáo dục đã được chú
trọng nhưng vẫn chưa thực sự đồng bộ. Một số tệ nạn như cờ bạc, trộm cướp, vi
phạm luật giao thông, luật hành chính còn tồn tại. Đó là những thách thức lớn
đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã nhà trong tiến trình đi lên sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở những giai đoạn tiếp theo.
IV. NGHĨA MAI TRONG XU THẾ HỘI NHẬP NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (2000 - 2010)
1. Giai đoạn 2000 - 2005
Bước
vào những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với sự thay đổi mọi mặt của tình hình đất
nước, Nghĩa Mai cũng đứng trước những vận hội
mới. Sau 15 năm đổi mới, xã nhà đã giành được những thành tựu cơ bản trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như đúc rút nhiều kinh
nghiệm quan trọng trong quá trình hoạt động. Phát huy tối đa tiềm năng về con
người, tài nguyên; cán bộ và nhân dân xã đã được củng cố niềm tin bởi đường lối
đổi mới của Đảng, ý thức để phát triển kinh tế - xã hội ngày càng rõ nét hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi căn bản đó, Nghĩa
Mai còn gặp không ít khó khăn về vốn, kỹ thuật và phương tiện; cơ sở
phúc lợi xã hội tuy có nhiều cải thiện nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn; trình độ quản lý của một số cán bộ còn hạn chế
trước yêu cầu của đổi mới. Với những nỗ lực to lớn, Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai đã phấn đấu khắc phục khó khăn, phát huy
thuận lợi, bước đầu thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn.
Từ
ngày 19 - 22.4.2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tổ
chức. Đại hội đã thông qua 4 văn kiện quan trọng: Báo cáo chính trị; Báo cáo về
việc bổ sung, sửa đổi điều lệ Đảng; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm
2000 - 2010; Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thành công là nguồn sức mạnh hết sức
to lớn để tăng cường hơn nữa sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng và khối đại
đoàn kết dân tộc.
Trước
đó, ngày 28 - 29.12.2000, tại Hội trường trung tâm văn hóa thị trấn Thái Hòa đã
diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ Nghĩa Đàn khóa XXV. Đại hội đã tập trung trí tuệ,
đánh giá những thành tựu, hạn chế của nhiệm kỳ XXIV (1996 - 2000), tìm ra
nguyên nhân mặt mạnh, mặt yếu. Trên cơ sở đó,, Đại hội đã đề ra phương hướng,
nhiệm vụ, mục tiêu nhiệm kỳ XXV là: “Khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại,
kiên quyết đổi mới tư duy kinh tế, phát huy cao độ nội lực, tiềm năng và thế
mạnh của vùng đất đỏ Ba zan; gắn kết ngành và lãnh thổ, chuyển dịch mạnh mẽ cơ
cấu kinh tế, trước hết là lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra các vùng chuyên canh sản
xuất hàng hóa lớn; đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông - lâm sản và thương mại
dịch vụ; thực hiện đồng bộ các biện pháp tổ chức, cơ chế chính sách, áp dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, từng bước xã hội hóa một số mặt trên lĩnh vực văn
hóa - xã hội, nhanh chóng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng
Đảng, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu đưa Nghĩa Đàn
nhanh chóng trở thành một trong những huyện giàu mạnh của tỉnh, xứng đáng là
trung tâm của vùng Tây Bắc Nghệ An”(1).
Ngày
19 - 20.10.2000, 86 đảng viên trong toàn Đảng bộ đã về tham dự Đại hội Đảng bộ
Nghĩa Mai lần thứ XVIII nhiệm kỳ (2000 - 2005). Đại hội xác định: phát huy
những kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại yếu kém, quán triệt sâu sắc các
quan điểm và các Nghị quyết của Đảng các cấp, Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai
tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế nông lâm nghiệp toàn diện, coi trọng phát
triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Thực hiện nhanh
chương trình xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, khai thác
tốt tối đa mọi tiềm năng nguồn lực của địa phương để phát triển kinh tế - xã
hội với nhịp độ cao hơn. Tích cực xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường công tác
an ninh và quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Làm
tốt công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Phấn đấu đến
2005 kinh tế xã hội của xã tăng 1,5 lần so với hiện tại để sớm đưa Nghĩa Mai
thoát khỏi xã nghèo của huyện. Phấn đấu xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Đại hội đã đề ra một số mục tiêu cụ thể như sau: tăng trưởng kinh tế hàng
năm từ 12%, trong đó chăn nuôi là 35 %, nông lâm nghiệp 91,5%, thương mại và
dịch vụ là 8,5%; bình quân lương thực đạt 18 -20kg/người/ năm; phấn đấu phổ cập
Trung học cơ sở vào năm 2005; giảm hộ đói nghèo xuống 10% - 12 %, tỷ lệ phát
triển dân số xuống 11%, 50% số xóm làng đạt đơn vị làng văn hoá; Đảng bộ đạt
xuất sắc, 85% số đảng viên hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ban
Thường vụ gồm:
1.
Đồng chí Lê Văn Kỷ - Bí thư Đảng ủy (2000 - 12.2003)
2. Đồng chí Vi Văn Đua - Trực Đảng
3.
Đồng chí Cao Văn Dũng - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
Trong nhiệm
kỳ (2000 - 2005), Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai đã đạt được những thành tích
nổi bật trên các lĩnh vực như sau:
Về
kinh tế
Thực hiện Chỉ thị số 02 (năm 2002) của Tỉnh ủy
Nghệ An, Nghĩa Mai đã tiến hành “Dồn điền đổi thửa” trên diện tích đất canh
tác, khắc phục tình trạng ruộng đất manh mún, tạo điều kiện thâm canh, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng và đưa cơ giới hóa vào ruộng đồng. Mặt khác, xã còn tập
trung chỉ đạo xây dựng các chương trình, đề án thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu cây trồng theo đúng hướng, xây dựng đề án sản xuất hợp lý nền sản
xuất nông nghiệp có bước phát triển toàn diện; trong đó chú trọng đầu tư thâm
canh, công tác thủy lợi, giống và bảo vệ thực vật; chủ động phòng chống và khắc
phục thiên tai, ứng dụng tích cực khoa học kỹ thuật, nên năng suất sản lượng
năm sau cao hơn năm trước. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, toàn xã đã cơ
bản chuyển đổi hoàn toàn bộ giống, đưa vào sản xuất lúa lai Tạp Giao trong vụ
Đông Xuân (tăng từ 80 - 85%), có diện tích 11,7 ha/năm, sản lượng bình quân
hàng năm đạt 1.620 tấn. Đặc biệt, xã đã chuyển đổi hơn 50 ha đất lúa vùng năng
suất không ổn định sang trồng mía có năng suất cao hơn. Năm 2000, năng suất mía
ở Nghĩa Mai tăng lên 55.000 tấn. Ngoài ra, xã còn thực hiện chương trình cải
tạo vườn tạp đưa các loại cây ăn quả như nhãn, vải vào trồng và bước đầu có thu
hoạch. Giá trị thu nhập của các hộ đạt trên 1 triệu đồng.
Ngành
chăn nuôi có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tổng đàn trâu, bò
tăng bình quân 26,5% (năm 2000 có 1.620 con đến năm 2005 tăng lên 2.050 con);
đàn lợn năm 2000 là 2.630 con đến năm 2005 là 2.100 con; đàn dê năm 2000 có 150
con đến năm 2005 tăng lên 576 con. Đặc biệt, xã đã khai thác và tận dụng tốt
mặt nước của một số hồ đập nên sản lượng cá hàng năm đều tăng trưởng khá. Tỷ
trọng thu nhập từ chăn nuôi năm 2000 chiếm 31,4% thì đến năm 2005 là 36,5% trong nông nghiệp.
Ngành
lâm nghiệp đã có bước phát triển khá, xã đã chủ trương xã hội hóa nghề rừng,
gắn khoanh nuôi bảo vệ rừng, trồng rừng với công tác định canh, định cư, đồng
thời tiến hành phủ xanh đất trống, đồi trọc… Năm 2005, xã có 796 ha rừng khoanh
nuôi và 140 ha rừng trồng mới. Trong 5 năm qua, xã không xảy ra hiện tượng cháy
rừng.
Mặt
khác, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ - thương mại phát triển khá. Năm 2000, xã
chỉ có 108 hộ với 178 lao động tham gia ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
thì đến năm 2005, xã có khoảng 50 lao động thường xuyên đi làm ăn ở nước ngoài
và có gần 500 lượt người đi làm ăn ở các tỉnh khác, tạo ra nguồn thu nhập cho
gia đình và xã hội. Năm 2000, tổng thu nhập từ ngành thương mại - dịch vụ chỉ
có 30 triệu đồng, đến năm 2005 lên tới hơn 1 tỷ đồng.
Thực
hiện Nghị quyết của Đại hội, cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung đầu tư xây
dựng hạ tầng nhằm phục vụ tốt hơn cho sản xuất cũng như đảm bảo đời sống dân
sinh. Xã đã tu sửa, nâng cấp đường giao thông liên hương, liên gia 10 km, 1,6
km đường trung tâm cụm xã, xây dựng trường THCS 2 tầng với 12 phòng học; xây
dựng trường Tiểu học với 8 phòng học nhà cấp 4; xây dựng trạm y tế ở trung tâm
cụm xã với 6 phòng.
Trong nhiệm kỳ qua, với sự hỗ trợ của Chính
phủ về chương trình 135, chương trình CBI và phát huy nội lực của Đảng bộ và
nhân dân xã nhà đã từng bước xây dựng hệ thống kênh mương và các hạng mục công
trình cống, tràn, hồ, đập..., trường học, lớp học, nhà văn hóa các xóm với
phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng
làm. Nghĩa Mai đã xây
dựng 32 phòng học cao tầng cho cấp 1, 2; 16 phòng học nhà cấp 4 cho trường cấp
1; 2 văn phòng làm việc; 6 nhà hội quán, xây dựng mới trụ sở UBND với giá trị 420 triệu
đồng; chương trình giao thông 2.490 tỷ đồng; công trình thủy lợi 1,27 tỷ đồng;
trạm xá 450 triệu đồng. Tổng giá trị cho xây dựng cơ bản trong nhiệm kỳ là 17
tỷ đồng, trong đó vốn Nhà nước hỗ trợ 4,922 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 2.249 tỷ
đồng. Từ những kết đạt được, bộ mặt nông thôn xã Nghĩa Mai đang ngày càng khởi
sắc, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện hơn.
Về văn hóa, giáo
dục, y tế
Tiếp
tục quán triệt và triển khai Nghị quyết TW5 khoá VIII về “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, các hoạt động văn hóa văn
nghệ, thể dục, thể thao lành mạnh và bổ ích được phổ biến rộng rãi. Hàng năm,
xã thường tổ chức hội thao thi đấu bóng chuyền, bóng đá nhân dịp các ngày lễ
tết... Nét đẹp văn hóa cổ truyền được phát huy, các phong tục tập quán lạc hậu
từng bước được đẩy lùi, ngăn chặn được các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mê tín dị
đoan... Phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa ngày càng được mở
rộng. Năm 2000, xã có 52% đạt gia đình văn hóa, đến năm 2004 có 68% đạt gia
đình văn hóa, 27% gia đình thể thao, 23/23 đơn vị đã xây dựng hương ước và có 3
làng đạt làng văn hóa. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”
được quan tâm đúng mức và kịp thời. Các đối tượng chính sách, trẻ mồ côi, người
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đều được quan tâm chăm sóc chu đáo. Chương trình
xóa đói giảm nghèo tích cực được thực hiện đã khơi dậy truyền thống “Thương
người như thể thương thân” trong nhân dân. Tính đến năm 2005, toàn xã đã
cấp sổ tiết kiệm cho những gia đình có công với cách mạng, hỗ trợ kinh phí tu
sửa và làm mới nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết…
Sự
nghiệp giáo dục luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo và
nhân dân xã nhà. Cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng học tập được tăng
cường. Công tác xã hội - giáo dục ngày càng được mở rộng và phát triển. Đội ngũ
giáo viên từng bước được chuẩn hoá và có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa
các cấp, ngành. Trong 5 năm (2000 - 2005), hai trường cấp I, cấp II liên tục
giữ vững danh hiệu trường tiên tiến. Trường mầm non giữ vững trường khá. Năm
2002, trường Tiểu học và cấp 2 được xây dựng trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho
con em học tập. Năm 2005, Nghĩa Mai được công nhận là đơn vị phổ cập phổ thông
THCS. Tỷ lệ học sinh lên lớp đạt 99%, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 98,7%. Học sinh thi
đậu cấp III hàng năm đạt từ 65% đến 70%. Bình quân mỗi năm có 10 em thi đậu vào
các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp. Các thôn xóm, dòng họ,
các tổ chức đoàn thể và gia đình đã tiến hành xây dựng Hội Khuyến học và hoạt
động có hiệu quả.
Các
chương trình y tế Quốc gia, y tế cộng đồng, tiêm chủng mở rộng thực hiện tốt
nên đã ngăn chặn được dịch bệnh xẩy ra. Trình độ chuyên môn của các cán bộ y tế
được nâng lên. Bình quân hàng năm từ 1.800 - 2000 lượt người đến khám và điều
trị tại trạm. Tỷ lệ sinh con thứ ba giảm dần theo từng năm từ 38,4% (năm 2000)
xuống còn 36,7% (năm 2005), cuối nhiệm kỳ có 7 xóm không có người sinh con thứ
ba. Trong những năm tới, trạm xá của xã đang phấn đấu đạt danh hiệu chuẩn Quốc
gia về y tế.
Về quốc phòng an
ninh, xây dựng Đảng và các đoàn thể
Các
kế hoạch sẵn sàng chiến đấu gắn liền với nhiệm vụ giữ vững chính trị, đảm bảo
trật tự trên địa bàn được xây dựng và bổ sung thường xuyên. An ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội được giữ vững, các tệ nạn xã hội từng bước được đẩy lùi.
Các vụ việc xảy ra trong nội bộ nhân dân được giải quyết kịp thời, đúng pháp
luật, không để vụ việc kéo dài. Công tác thanh tra, kiểm tra được tăng cường và
hoạt động có hiệu quả nên đã hạn chế được mức thấp nhất đơn thư vượt cấp. Lực
lượng công an thường xuyên được củng cố đáp ứng với nhiệm vụ trong từng giai
đoạn. Ban công an xã luôn đạt đơn vị loại giỏi và đơn vị quyết thắng. Việc gọi
tuyển thanh niên nhập ngũ hàng năm đạt và vượt chỉ tiêu được giao. Lực lượng
dân quân tự vệ thường xuyên đảm bảo quân số và sẵn sàng chiến đấu. Đơn vị dân
quân của xã liên tục được công nhận là đơn vị tiên tiến.
Quán
triệt Nghị quyết Trung ương 7, Trung ương 8 về nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, Đảng bộ Nghĩa Đàn tổ chức cho cán bộ đảng
viên học tập, quán triệt các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về cuộc
vận động đổi mới và chỉnh đốn Đảng đến chất lượng sinh hoạt Đảng, tăng cường
công tác kiểm tra Đảng, tổ chức tốt các đợt sinh hoạt Đảng bộ, chi bộ thường
kỳ; đồng thời, chủ động triển khai các đợt học tập Nghị quyết gắn liền với
chương trình hành động của Đảng bộ....
Các
kỳ họp của Hội đồng nhân dân diễn ra kịp thời và có chất lượng. Các ý kiến của
cử tri được giải quyết một cách thỏa đáng, tạo điều kiện cho nhân dân phát huy
quyền làm chủ của mình. Ủy ban nhân dân trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng ủy,
HĐND đã kịp thời cụ thể hóa thành các chương trình hành động sát với tình hình
thực tiễn của địa phương. Trong đó, đáng chú ý là việc khơi dậy nội lực trong
dân để xây dựng cơ sở hạ tầng như: điện, đường, trường, trạm, kênh mương và các
công trình văn hóa cơ sở... từng bước đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Mặt
trận Tổ quốc xã đã bám sát chức năng của mình, phối hợp hoạt động với các ban
ngành, đoàn thể tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận Tổ quốc đã tập
hợp và phát động nhiều phong trào hiệu quả như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư”, phối hợp cùng Ban Công an thành lập các tổ liên gia
tự quản, làm tốt công tác hoà giải... Mặt trận phát động nhân dân tham gia các
cuộc vận động ủng hộ người nghèo (22 triệu đồng), quỹ đền ơn đáp nghĩa (44 triệu
đồng), ủng hộ người cao tuổi (3 triệu đồng), quỹ bảo trợ trẻ em (7,5 triệu
đồng) và xoá được 29 nhà tranh tre dột nát.
Hội
Cựu chiến binh làm tốt công tác giáo dục truyền thống, giữ vững bản chất “bộ
đội Cụ Hồ”, tham gia có hiệu quả công tác an ninh trật tự, tự quản. Phối hợp
với tổ mặt trận làm công tác hòa giải ở các thôn xóm, tham gia công tác hậu
phương quân đội, duy trì hoạt động. Hội còn đứng ra vay vốn hộ trợ cho một số
hội viên phát triển sản xuất. Đến năm 2005,
Hội có 347 hội viên.
Hội Nông
dân là đơn vị dẫn đầu huyện trong công tác mua bảo hiểm nông dân và có sự
chuyển biến rõ nét về tổ chức cũng như hoạt động. Trong đó, việc triển khai xây
dựng chương trình xóa vườn tạp, nhiều mô hình đạt hiệu quả kinh tế cao. Hội đã
đứng ra tín chấp cho 156 hộ nông dân vay 600 triệu đồng làm vốn phát triển kinh
tế. Hội còn làm tốt công tác tư vấn chuyển tải khoa học kỹ thuật về cây trồng
vật nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón cho hội viên Hội Nông dân.
Hội
Phụ nữ tính đến năm 2005 có 185 hội viên với tỷ lệ tập hợp đạt 87,1%. Ngoài ra,
hội đã làm tốt công tác tuyên truyền KHHGĐ, góp phần làm giảm tỷ lệ tăng dân
số. Hội đã đứng ra làm chủ dự án tạo việc làm cho hội viên, góp phần xoá đói
giảm nghèo. Đến năm 2005 quỹ vốn của hội có 600 triệu đồng và cho 156 hộ vay để
phát triển kinh tế. Năm năm liền được xếp là Hội Phụ nữ hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ.
Đoàn
Thanh niên hoạt động ngày càng hiệu quả, thể hiện qua các phong trào văn hoá -
văn nghệ, thể dục - thể thao trong các ngày lễ lớn. Tổ chức Đoàn đã phát huy
vai trò xung kích trong phong trào: “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ
nước”, “Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và phong trào “ Thanh niên tình
nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trên cơ sở các hoạt động của phong trào
thanh niên, Đoàn đã giáo dục, bồi dưỡng kết nạp nhiều đoàn viên mới và giới
thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng. Riêng năm 2005 đã kết nạp 78 thanh niên vào tổ
chức Đoàn, giới thiệu 23 đoàn viên ưu tú, trong đó có 10 người được kết nạp vào
Đảng. Tổ chức Đoàn đã đứng ra vay vốn và giải quyết việc làm cho thanh niên,
với số dự án ban đầu là 80 triệu cho 18 hội viên vay và đang phát huy có hiệu
quả.
2. Giai đoạn 2005 - 2010
Từ
ngày 18 - 25.04.2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã được
tiến hành tại Hà Nội với chủ đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công tác đổi
mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Trước đó, trong
những ngày cuối tháng 8.2005, Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XVI đã khai mạc
tại thành phố Vinh. Đại hội thể hiện sự nhất trí cao với Báo cáo kiểm điểm thực
hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ XV và đề ra phương hướng, mục tiêu nhiệm vụ
thời kỳ (2006 - 2010), với tư tưởng chỉ đạo: đổi mới, hợp tác, hội nhập và tăng
tốc. Huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp, tập trung cao cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn; chăm lo xoá đói
giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, nhất là việc làm, quan liêu,
tham nhũng và các tệ nạn xã hội. Xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể
quần chúng ngày càng vững mạnh. Giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng an ninh
và trật tự an toàn xã hội, phấn đấu đưa Nghệ An thoát nghèo và thoát khỏi tình
trạng kém phát triển vào năm 2010.
Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh là động
lực và phương hướng chỉ đạo đối với Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai trong những
năm tiếp theo của thời kỳ đổi mới.
Tháng
7.2005, Đại hội Đảng bộ Nghĩa Mai lần thứ XIX nhiệm kỳ (2005 - 2010) được tiến
hành tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã, với sự tham dự của 101 đảng viên. Đại
hội đã đề ra với một số chỉ tiêu cụ thể:
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm
tăng 15%. Tổng giá trị sản xuất đạt 29 tỷ đồng, bình quân thu nhập đầu người
đến năm 2010 là 7 triệu đồng; hạ tỷ lệ tăng dân số dưới 6%; xây dựng xóm văn
hoá đạt 75%, gia đình văn hoá đạt 70 - 75%; giảm hộ nghèo xuống dưới 5%; trường
Mầm non và Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia; tỷ lệ gia đình dùng nước sạch 80 - 90%;
Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh,
kết nạp từ 75 đảng viên mới, không có chi bộ yếu kém(1))”.
Ban Thường vụ gồm 3 các đồng chí:
1. Đồng chí Ngô Văn Thành (1.2004 - 6.2005)
- Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Vi Văn Đua - Thường
vụ - Trực Đảng
3. Đồng chí Ngô Minh Tú - Phó Bí thư, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân
Đến tháng 7.2006, Ban Thường vụ Nghĩa Mai được kiện toàn lại:
1. Đồng chí Vi Văn Đua - Bí thư Đảng ủy
2. Đồng chí Vũ Xuân Hiển - Phó Bí thư Thường trực, Chủ tịch HĐND
3. Đồng chí Ngô Minh Tú - Chủ tịch Ủy ban nhân
dân
4. Đồng chí Hoàng Văn Nhường - Phó Chủ tịch UBND
5. Đồng chí Lê Hải Long - Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Về kinh tế
Trên
cơ sở phát huy tốt tiềm năng và năng lực sẵn có, nền kinh tế của xã đã có bước
phát triển nhanh và tương đối toàn diện. Đời sống nhân dân được nâng lên rõ
rệt, bộ mặt nông thôn mới của Nghĩa Mai đang đổi thay từng ngày. Tổng giá trị
sản xuất đạt hơn 42 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,5%. Nông nghiệp
nông thôn Nghĩa Mai có nhiều chuyển biến mạnh trên cơ sở xây dựng và thực hiện
khá hiệu quả 4 đề án về sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong đó
xã đã có những đề án mang lại hiệu quả cao như đề án về trang trại với hệ số sử
dụng đất là 2,15 lần. Năm 2009, tổng sản lượng
lương thực đạt 1.800 tấn. Tổng thu ngân sách đạt 8,199 triệu đồng. Sản lượng
lúa cả nhiệm kỳ đạt 7.669 tấn. Sản lượng mía năm 2005 là 45.000 tấn, năm 2009
đạt khoảng 50.000 tấn. Sản lượng sắn cả nhiệm kỳ đạt 8.44 tấn…
Lĩnh
vực chăn nuôi, công tác thú y, phòng chống dịch bệnh từng bước được khắc phục
và chú trọng hơn trong việc bảo vệ đàn. Vì thế, đến
tháng 5.2010, đàn trâu, bò 1.585 con; đàn lợn năm 2005 có 2.100 con đến năm
2009 tăng lên 3.800 con, đạt 95% kế hoạch; gia cầm đạt 3.000 tấn. Ngoài
ra, xã cũng tích cực cải tạo mặt nước ao hồ, mở rộng diện tích nuôi cá nên sản
lượng cá đạt 150 tấn, đạt 100% so với kế hoạch.
Lâm
nghiệp có bước phát triển tốt. Xã tập trung bảo vệ và khai thác diện tích trồng
rừng đến tuổi. Toàn xã có 1.465 ha đất lâm nghiệp, trong đó, trồng mới 250 ha
cây keo. Tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 41%. Trong 5 năm xã không để xảy ra hiện
tượng cháy rừng.
Công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: các cơ sở sản xuất gạch, ngói, khai thác đá, chế
biến gỗ, gò hàn, mộc dân dụng đang từng bước được khẳng định. Các cơ sở sản
xuất ra đời một mặt tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động, mặt khác tăng
thêm thu nhập cho bà con trong xã. Trong 5 năm qua, Đảng ủy, chính quyền luôn
ưu tiên những công trình thiết thực. Công trình giao thông, thủy lợi, xây dựng
mới hội trường UBND, hoàn thiện trường THCS và Tiểu học, phòng giao dịch một
cửa, trạm điện vùng ngoài với tổng giá trị 4,3 tỷ đồng.
Về văn hoá - xã hội
Phong
trào toàn dân “Xây dựng đời sống văn hóa” ngày càng phát triển và mang lại hiệu
quả cao. Công tác thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh, hệ thống truyền thanh
có nhiều thay đổi về thời lượng và chất lượng, 100% hộ gia đình được xem truyền
hình. Hàng
năm, xã có 85% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa.
Tỷ lệ
trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt 85%. Học sinh đậu tốt nghiệp các cấp đạt 90% trở
lên. Bình quân mỗi năm có 10 em thi đậu vào các trường Đại học và Cao đẳng,
Trung học chuyên nghiệp. Công tác xã hội hóa giáo dục phát huy hiệu quả. Phong
trào xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài phát triển mạnh từ tổ liên gia, dòng
họ, xóm đến xã. Năm 2010, trường Tiểu học B được công nhận trường chuẩn Quốc
gia giai đoạn 1. Xã hoàn thành phổ cập giáo dục Tiểu học và phổ cập Trung học
cơ sở vào năm 2008. Trong nhiệm kỳ xã có 3 em thi học sinh giỏi tỉnh, 10 em thi
học sinh huyện, 18 em đậu Đại học, 10 em đậu Cao đẳng.
Công
tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được chú trọng, chương
trình dân số, gia đình, trẻ em có nhiều tiến bộ, giữ vững và phấn đấu xã đạt
chuẩn Quốc gia về y tế. Đội ngũ y tế từ xóm đến trạm xá thường xuyên được đào
tạo và đào tạo lại, trách nhiệm của các cán bộ ngành y tế được nâng lên kể cả
chuyên môn và tác phong, thái độ làm việc. Trong 5 năm không xảy ra dịch bệnh
và những sơ suất trong chuyên môn. Các chương trình y tế Quốc gia được triển
khai đồng bộ và có hiệu quả, 99% trẻ em được tiêm các loại vắc xin tiêm phòng
và uống Vitamin A. Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em luôn được quan tâm đúng mức
như hỗ trợ trẻ em bị khuyết tật, bị bệnh bẩm sinh, tặng quà cho các em nhân dịp
Trung thu, ngày Quốc tế thiểu nhi và ngày 1.6 và cấp đầy đủ thẻ BHYT cho các
cháu dưới 6 tuổi. Tích cực đẩy mạnh các hoạt động truyền thông dịch vụ kỹ thuật
về dân số, kế hoạch hoá gia đình trẻ em. Tỷ lệ phát triển dân số ổn định dưới
0,55%. Tỷ lệ người sinh con thứ ba chiếm 16%, trẻ em suy dinh dưỡng dưới 19%,
đạt chỉ tiêu Đại hội đề ra.
Lao
động việc làm, chương trình xóa đói giảm nghèo và chính sách xã hội được quan
tâm, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết đầy đủ, kịp thời các chế độ chính sách đối
với người có công, các đối tượng xã hội khác và đẩy mạnh các hoạt động từ thiện
nhân đạo... Xã rất chú trọng đến công tác xóa đói, giảm nghèo và xóa nhà tạm bợ
cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Năm 2005, số hộ nghèo chiếm 42% đến
năm 2009 giảm xuống 23%. Năm 2005, xóa được 26 nhà tranh tre đến năm 2010, xóa
được 35 nhà. Điều này đã góp phần làm cho bộ mặt nông thôn xã Nghĩa Mai ngày
càng đổi mới. Trong 5 năm, xã chi trả 4.127.430.000 triệu đồng; cấp 15 tấn gạo;
cấp 136 huân, huy chương các loại cho các đối tượng, gia đình chính sách. Cấp
630 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công với cách mạng 1.125 thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo. Trong
đó, đối tượng BHYT 1 năm người cao tuổi là 89 người. Giải quyết công ăn việc
làm, giảm các hộ nghèo, phân phối lao động hợp lý tại địa phương đạt kết quả tốt.
Công tác quốc phòng, an ninh
Quốc phòng an ninh được tăng cường, giữ vững ổn định
chính trị, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội. Xã đã chỉ
đạo thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết, Chủ trương của Trung ương, của tỉnh,
huyện về công tác quốc phòng an ninh một cách có hiệu quả. Mặt khác xã còn àm
tốt công tác phòng chống cháy rừng, phòng chống bão lụt, tăng cường công tác
khám tuyển giao quân, huấn luyện dân quân tự vệ vững mạnh toàn diện.
Công tác tiếp dân, giải quyết các đơn thư khiếu nại
được duy trì nghiêm túc. Các vụ việc cơ bản được giải quyết ngay từ tổ liên gia
đến xóm, không có đơn thư kéo dài, hạn chế đơn thư vượt cấp. Trong nhiệm kỳ đã
tiếp nhận hơn 100 lượt công dân, 34 vụ việc đều đã giải quyết 100%. Hoạt động
phối hợp giữa các ban, ngành có hiệu quả nên công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, cảm hóa giáo dục người lầm lỗi, tố giác tội phạm được triển khai ở
nhiều xóm và thu được kết quả tốt. Cũng trong thời gian này, trung tâm giao
dịch “một cửa” đi vào hoạt động, các quy định về cải cách hành chính Nhà nước
được thực hiện nghiêm chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm các thủ
tục giấy tờ được thuận tiện. Trong nhiệm kỳ, xã đã ban hành 65 loại văn bản;
chứng thực 4.320 giấy tờ; tuyên truyền các luật, pháp lệnh 66 buổi có 2.640
lượt người tham gia, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về các chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước… Công tác thi đua khen thưởng cũng được
quan tâm đúng mức. Quy chế dân chủ được mở rộng, công tác phòng chống tiêu cực
tham nhũng đẩy mạnh. Trật tự an toàn xã hội được giữ vững là địa bàn sạch về ma
túy, mại dâm, không có đơn thư khiếu nại vượt cấp. Trong nhiệm kỳ được cấp trên
khen thưởng và xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ
Về công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị
Đảng bộ xã Nghĩa Mai tập trung lãnh đạo, tăng cường
công tác chính trị tư tưởng, nắm bắt định hướng dư luận, tạo sự thống nhất
trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân. Tổ chức triển khai, xây dựng kế
hoạch thực hiện các Nghị định, Chỉ thị của Trung ương, của tỉnh, huyện, xã một
cách nghiêm túc, đặc biệt là Nghị quyết 02 của Huyện ủy về “tăng cường công tác
tư tưởng”. Đảng bộ cũng chỉ đạo tổ chức các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị
trọng đại, nâng cao chất lượng chương trình truyền thanh, đưa ngày giao ban tư
tưởng đi vào chiều sâu hơn. Công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng làm chuyển
biến nhận thức, tư tưởng hành động của các cấp các ngành, nâng cao bản lĩnh
chính trị, giữ vững phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên
Công tác tổ chức cán bộ được thực hiện nghiêm túc dưới
sự chỉ đạo của cấp trên nhất là trên lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng
và thực hiện đề án “nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chức cơ sở Đảng và chi bộ
trực thuộc Đảng bộ”. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, quan tâm tới việc
phát triển Đảng và công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cho cả
hệ thống chính trị từ xóm đến xã có kế thừa hợp lý. Đánh giá đúng tình hình để
có sự luân chuyển đúng người, đúng việc, phát huy tốt nhiệm vụ được giao. Nhiệm
kỳ qua đã kết nạp được … đảng viên mới, trong đó có …đảng viên là dân tộc thiểu
số. Ngoài ra, hàng năm Đảng bộ còn tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho trên 100
lượt cán bộ từ xóm đến xã. Ủy viên BCH Đảng bộ có trình độ chuyên môn Đại học
chiếm 33,3%, 100% cán bộ công chức xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở
lên. Chi bộ trong sạch vững mạnh chiếm 86,9%, không có chi bộ yếu kém. Đảng bộ
được huyện công nhận là đơn vị “Trong
sạch vững mạnh”. Ngoài ra, Đảng bộ đã thực hiện có hiệu quả công
tác kiểm tra, giám sát theo quy định của điều lệ Đảng. Triển khai giám sát các
nhiệm vụ của cấp trên về công tác kiểm tra, giám sát, trên cơ sở thực hiện Nghị quyết 05 của Huyện uỷ (nâng
cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát). Hàng năm 100% chi bộ được kiểm tra
trên tất cả các mặt theo chương trình kiểm tra của cấp ủy và ủy ban kiểm tra.
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã tiếp nhận 27 đơn thư và đã giải quyết 100%, đảm bảo
đúng thẩm quyền và đúng thời gian. Công tác kiểm tra đã góp phần tích cực vào
việc giáo dục, ngăn ngừa, nâng cao tính tự giác chấp hành kỷ luật của đảng viên
và tổ chức Đảng. Đảng bộ xã đã tăng cường công tác dân vận, tạo sự đồng thuận
của xã hội trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Tập trung vào công tác tuyên truyền vận động, khuấy động lên phong trào
thi đua trên tất cả các mặt. Thực hiện tốt các quy chế dân chủ, tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật. Nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân, đấu tranh có hiệu quả đối với các hành vi làm ảnh hưởng đến khối đoàn kết
toàn dân, khơi dậy tinh thần sáng tạo trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, làm giàu chính đáng.
Cuộc vận động của Bộ Chính trị “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Bộ Chính trị được triển khai một cách
nghiêm túc từ việc xây dựng kế hoạch cho từng thời kỳ, thời gian cụ thể. Các tổ
chức cá nhân đều đăng ký phấn đấu xây dựng tiêu chuẩn đạo đức để thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở lĩnh vực mình tham gia. Sau 3 năm thực hiện cuộc vận động,
xã đã đạt kết quả bước đầu rất quan trọng. Cuộc vận động được đông đảo cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân đón nhận và tham gia một cách tự giác. Lấy
việc hoàn thành nhiệm vụ là thước đo, tạo sự đoàn kết nhất trí cao trong tổ
chức và nhân dân, khơi dậy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết tương thân, tương ái.
Thực hiện cải cách hành chính phục vụ nhân dân, sửa đổi lề lối làm việc, giảm
bớt phiền hà cho nhân dân. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công chức
trong việc thực hiện nhiệm vụ. Nhờ đó, cuộc vận động đã góp phần đổi mới và
nâng cao chất lượng của cả hệ thống chính trị, thực hiện quy chế dân chủ, giải
quyết các vụ việc một cách nhanh chóng, hợp tình và đúng pháp luật, giảm bớt
đơn thư khiếu nại tố cáo vượt cấp.
Hội đồng nhân dân đã tập trung nâng cao chất lượng các
kỳ họp, hoạt động giám sát của Thường trực hội đồng. Tăng cường tiếp xúc cử
tri, dành nhiều thời gian của các kỳ họp cho thảo luận, chất vấn và trả lời
chất vấn; xây dựng nghị quyết sát đúng với tình hình cụ thể của xã nhà. Bộ máy
Ủy ban nhân dân xã không ngừng được củng cố, đội ngũ cán bộ được bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy, hiệu quả công việc được nâng lên rõ rệt. Đổi mới
phong cách, lề lối làm việc, Ủy ban nhân dân đã bám sát các chủ trương của Đảng
bộ và Hội đồng nhân dân, cụ thể hoá bằng nhiều đề án, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng chính trị xã
hội đã tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng hệ thống chính
trị, làm tốt công tác từ thiện, nhân đạo, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc đã thực
hiện tốt cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”. Trong 5 năm qua, Mặt trận
cũng như các đoàn thể đã vận động nhân dân ủng hộ được … ngàn đồng và hàng trăm
ngày công, xóa được 23 nhà tranh tre tạm bợ, hỗ trợ … học sinh nghèo với tổng
số tiền …..triệu đồng. Hội Nông dân đã tạo điều kiện cho 137 hội viên vay vốn
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo với tổng giá trị … tỷ đồng. Các đoàn thể
đã thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và dự án, xây dựng các loại quỹ
giúp nhau xóa đói giảm nghèo, nhiều dự án phát huy tốt như: dự án bò sinh sản
của phụ nữ đơn thân. Mặt khác, tổ chức tập huấn, trao đổi kinh nghiệm và chuyển
giao khoa học kỹ thuật, xây dựng các mô hình điển hình tiên tiến. Đổi mới cách
sinh hoạt, thu hút đoàn viên, hội viên tham gia các tổ chức ngày càng đông. Do
vậy, tỷ lệ tập hợp của Đoàn Thanh niên là 68,7%, Hội Nông dân 78%, Hội Phụ nữ
92,4%, Hội Cựu chiến binh 98%.
3. Giai đoạn
2010 - 2015
Tiếp nối thành
công đã đạt được, ngày 1.6.2010, Đại hội Đảng bộ Nghĩa Mai diễn ra tại Ủy ban
nhân dân xã. Đại hội đã thảo luận
và đánh giá đúng mức những kết quả đã đạt được, đồng thời chỉ rõ những tồn tại, yếu kém,
nguyên nhân của những ưu điểm, khuyết điểm, rút ra bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XIX Đảng bộ cơ sở trong 5 năm qua; từ đó, xác định phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho giai đoạn phát triển 5 năm tới
(2010 - 2015).
Đại hội Đảng
quyết định mục tiêu tiếp theo: “phát huy
sức mạnh của cả cộng đồng, huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển nông
nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nông - Lâm kết hợp, đẩy mạnh tốc
độ phát triển kinh tế, chăm lo thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống
nhân dân. Đặc biệt là các xóm, bản vùng trong có nhiều đồng bào dân tộc thiểu
số sinh sống. Tập trung giải quyết các vấn đề còn tồn tại. Củng cố và nâng cao
chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng bộ, các chi bộ trực thuộc. Xây dựng Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận
và các đòan thể ngày càng vững mạnh. Giữ vững ổn định chính trị. Quốc phòng an
ninh được tăng cường vững chắc, giảm thiểu tai nạn giao thông, đảm bảo trật tự
an toàn xã hội. Phấn đấu đưa Nghĩa Mai sớm ra khỏi những xã đặc biệt khó khăn,
phấn đấu trở thành một xã khá của huyện”.
Ban Thường vụ nhiệm kỳ (2010 - 2015) gồm các đồng chí:
1.
Đồng chí Vi Văn Đua - Bí thư Đảng ủy
2.
Đồng chí Hoàng Văn Nhường - Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã
3.
Đồng chí Vũ Xuân Hiển - Phó Bí thư Thường Trực, Chủ
tịch HĐND
4.
Đồng chí Lê Hải Long - Phó Chủ tịch kinh tế
5.
Đồng chí Ngô Minh Tú - Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
xã
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Nghĩa Mai lần thứ 20, nhiệm kỳ 2010 - 2015 trong tình hình kinh tế trong nước
gặp nhiều khó khăn, giá cả không ổn định, dịch bệnh gia súc, gia cầm còn xảy
ra, thu nhập bình quân đầu người khá thấp. Tuy vậy Đảng ủy, chính quyền đã có
nhiều cố gắng, bám sát chương trình, kế hoạch công tác đề ra, tập trung lãnh
đạo khắc phục khó khăn, triển khai nhiệm vụ trên các lĩnh vực. Với sự nỗ lực
của cả hệ thống chính trị và nhân dân toàn xã, đến năm 2015, Nghĩa Mai đạt được
những kết quả chủ yếu sau.
Về phát triển kinh tế
Trong
những năm qua (2011 - 2015) kinh tế Nghĩa Mai tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng
kinh tế là 12,5%, cơ cấu kinh tế năm 2015: nông - lâm - ngư chiếm 89,2%, thương
mại - dịch vụ chiếm 1,7%, xây dựng cơ bản và tiểu thủ công nghiệp chiếm 9,1%.
Tổng giá trị sản xuất là 77.900 triệu đồng; giá trị sản xuất bình quân đầu người
đạt 10,4 triệu đồng/năm. Thu ngân sách trên địa bàn là 7.072 triệu đồng
Về
trồng trọt, trong 5 năm từ 2010 - 2015
Nghĩa Mai có bước tăng trưởng khá, chuyển dịch cơ cấu đúng hướng, phù hợp với
đặc điểm của địa phương. Bên cạnh việc tập trung chỉ đạo nhân dân tích cực đầu
tư, thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm trên một đơn vị diện tích các
loại cây trồng truyền thống như: lúa lai 312 ha năng suất 5,5 tấn/ha; mía 715
ha năng suất 55- 60 tấn/ha; ngô; lạc vv...Trong lao động sản xuất, đã có nhiều
điển hình về mô hình làm kinh tế giỏi, mang lại hiệu quả cao như: Dưa đỏ 80-
100 ha ở nhiều xóm; cam, quýt trên 60 ha ở 4A, 4B; cây công nghiệp hơn 100 ha
ở các xóm 14, 15, 6B, vv... Ngoài ra,
Nghĩa Mai còn chú trọng đến công tác phòng ngừa sâu bệnh đối với cây trồng và
vật nuôi. Do đó, năng suất chất lượng và hiệu quả một số cây trồng vật nuôi đạt
kết quả khá.
Chăn nuôi được xác định là khâu trọng yếu trong phát
triển nông nghiệp của xã nhà. Trong nhiệm kỳ, cấp ủy đã quan tâm chỉ đạo động
viên nhân dân áp dụng KHKT, tranh thủ các nguồn lực, đầu tư, phát triển chăn
nuôi, duy trì và phát triển đàn gia súc, gia cầm. Thời gian này có nhiều hộ dân
đã mạnh dạn đầu tư và phát triển theo hướng chăn nuôi hàng hóa. Hàng năm đưa
lại thu nhập khá, ổn định. Một số hộ có nhiều cách làm sáng tạo để phát triển
theo mô hình trang trại vừa và nhỏ, kết hợp với VACR mới có thu nhập khá.
Lâm
nghiệp: Hàng năm năm, xã luôn quan tâm bảo vệ tốt diện tích rừng trồng thuộc
các chương trình dự án và chăm sóc tốt rừng trồng mới, không để xẩy ra cháy rừng,
nâng diện tích che phủ lên 55%.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ
bản: Trong nhiệm kỳ 5 năm đã huy động sức dân và các nguồn đầu tư xây dựng cơ bản khác để triển khai
thi công xây dựng các công trình trên địa bàn. Với tổng số vốn trên 17 tỷ đồng,
xã đã xây dựng được 11 công trình ở 4 trường học, đường giao thông nông thôn,
thuỷ lợi, chợ dân sinh vv. Nâng tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản, chiếm: 9,1% (so với 2010 tăng 2,5%).
Thương mại, dịch vụ của xã tuy chiếm tỷ trọng ít
trong cơ cấu kinh tế nhưng thương mại dịch vụ của xã đã có bước phát triển đến
nay đã có 102 hộ kinh doanh dịch vụ, toàn xã có: 24 hộ kinh doanh vận tải hàng
hóa, vận tải hành khách, kinh doanh ăn uống... tổng mức bán lẻ hàng hóa còn
khiêm tốn chiếm: 1,7% (so với 2010 giảm 0,6%). Ước đạt
550 triệu đồng.
Công tác thu chi ngân sách hàng năm tăng
khá. Trong hoạt động chi ngân sách đã quan tâm nhiều hơn đến chi cho đầu tư
phát triển, hoạt động xã hội. Công tác thu, chi ngân sách đã tuân thủ nguyên
tắc, thủ tục theo quy định của luật ngân sách, thu đúng, thu đủ tránh thất
thoát và lãng phí. Năm 2010 tổng thu trên: 3 tỉ đồng; đến năm 2014 tổng thu: 5.534 triệu đồng, vượt 190% (chủ yếu là thu từ nguồn phân bổ của cấp
trên). Hàng năm hoàn thành việc thu nộp các quỹ pháp lệnh, các khoản đóng
góp ủng hộ có nhiều tiến bộ đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Đặc
biệt trong giai đoạn này, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, Ủy ban nhân
dân tỉnh Nghệ An, Ủy ban nhân dân huyện Nghĩa Đàn về xây dựng nông thôn mới, Đảng
ủy xã Nghĩa Mai đã ban hành một số văn bản (Nghị quyết, Quyết định, Thông báo,
Kế hoạch, Báo cáo…); thống nhất ra Nghị quyết lãnh đạo tổ chức thực hiện xây
dựng nông thôn mới; thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý xã, Ban Phát triển thôn
và Ban Giám sát cộng đồng theo hướng dẫn của tỉnh và huyện; tiến hành phân công
nhiệm vụ, lĩnh vực phụ trách cho từng thành viên cụ thể chi tiết. Sau khi Ban
Chỉ đạo, Ban Quản lý xây dựng Nông thôn mới và tổ công tác được thành lập đã
tiến hành điều tra, tập hợp số liệu tình hình kinh tế - xã hội, hiện trạng cơ
sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật của xã để làm cơ sở lập quy hoạch.
Năm
2011, xã đã hoàn thành xong việc lập quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới và
đã được Ủy ban nhân dân huyện Nghĩa Đàn phê duyệt. Trên cơ sở quy hoạch chung,
địa phương đã khẩn trương tiến hành khảo sát lập quy hoạch chi tiết hệ thống
giao thông thủy lợi nội đồng và vùng sản xuất tập trung cũng như lập quy hoạch
chi tiết khu trung tâm được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tổng vốn huy động đến
hết năm 2014 là … đồng, trong đó nhân dân góp vốn là … đồng. Trong năm 2014 đã
giải tỏa 23 km đường giao thông nông thôn, với 500 hộ dân hiến trên 20.000 m2
đất, các xóm, bản đã san lấp, mở rộng hành lang giao thông với gần 10.000 ngày
công, nâng cấp đường giao thông nội đồng, kênh mương, sân bóng…. Điều đó đã tạo
nên sự thay đổi diện mạo thôn xóm ngày càng khang trang hơn. Sau 5 năm tiến
hành chương trình xây dựng nông thôn mới, Nghĩa Mai đã đạt được 5/19 tiêu chí.
Về văn hóa - xã
hội
Trong
lĩnh vực giáo dục, các trường đã hoàn thành nhiệm vụ năm học 2011 - 2012, triển
khai kịp thời có chất lượng năm học 2012 - 2013. Việc huy động nguồn lực đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất cho nhà trường được đẩy mạnh, đáp ứng phần lớn cơ sở
vật chất cho dạy và học của các trường. Chất lượng dạy và học từng bước được
nâng lên.
Toàn
xã có 4 trường trân 3 bậc học, năm học 2011 -2012 có 1.297 học sinh nhưng năm
học 2012 -2013 có 1.253 học sinh tăng 44 học sinh. Cụ thế: Học sinh giỏi huyện 61 em đạt 4,9%
tăng 1,2 % so với cùng kỳ; học sinh giỏi trường 140 em đạt 11% tăng 6,3 so với
cùng kỳ; học sinh đạt danh hiệu tiến tiến, học sinh khá 469 em đạt 37,4% tăng
7,4% so với cùng kỳ; học sinh trung bình 475 em chiếm 37%; học sinh yếu kém:
108 em, chiếm 8%, giảm 6% so với cùng kỳ; Tỷ lệ đậu tốt nghiệp THCS đạt 98%;
Tổng số giáo viên, công nhân viên của 4 trường học là 107 đồng chí. Trong đó,
giáo viên giỏi cấp huyện là: 13 đồng chí, giáo viên đạt danh hiệu chiến sỹ thi
đua là 10 đồng chí. Cuộc vận động toàn dân “Xây dựng đời sống văn hóa” ngày càng
phổ biến và mang lại hiệu quả cao. Công tác thông tin tuyên truyền được đẩy
mạnh, hệ thống truyền thanh có nhiều thay đổi về thời lượng và chất lượng, 80%
gia đình được dùng điện sinh hoạt. Cho đến nay, toàn xã đã có 80 – 85% xóm đạt
tiêu chuẩn xóm văn hóa đơn vị văn hóa, tỷ lệ hộ gia đình văn hóa đạt 85% có …
đơn vị đạt đơn vị văn hóa. Việc cưới, việc tang đều được nhân dân tự giác chấp
hành và thực hiện tốt theo quy ước, hương ước. Những giá trị văn hóa đậm đà bản
sắc của xã luôn được gìn giữ và phát huy thông qua nhiều hình thức.
Trạm
y tế xã đã làm tốt công tác trực, khám và điều trị cho nhân dân, thực hiện đầy
đủ các chương trình Quốc gia về y tế và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân,
không để dịch bệnh lây lan trên địa bàn. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia
đình được trạm y tế thực hiện tốt. Việc khám định kỳ cho phụ nữ trong độ tuổi
sinh đẻ được duy trì đều đặn. Do đó, tỷ lệ phát triển dân số trên địa bàn năm
2014 giảm xuống còn 1%.
Các
hoạt động chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em được Đảng ủy, chính quyền và các tổ
chức đoàn thể quan tâm. Hàng năm, xã đều tổ chức hội trại cho các cháu vui
chơi; đồng thời đến thăm hỏi tặng quà cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn. Vì vậy, năm 2010 tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng năm 2010 là 225 đến
năm 2014 giảm xuống còn 16%.
Công tác Quốc phòng, an ninh
Thực hiện Nghị quyết chuyên
đề của Ban Chấp hành về lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân nâng cao tinh thần cảnh
giác cách mạng, xây dựng cơ sở An toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu, xây dựng
xã sạch không có tệ nạn xã hội, nhất là ma túy. Hàng năm, cấp ủy đều có Nghị
quyết về lãnh đạo quốc phòng – an ninh giao cho công an và quân sự phối hợp
hành động đảm bảo an ninh trật tự, góp phần ổn định chính trị. Xã thường xuyên
tổ chức huấn luyện kỹ thuật, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đối tượng,
khám tuyển nghĩa vụ quân sự luôn đạt chỉ tiêu. Hàng năm, xã tiến hành sơ kết,
tổng kết việc thực hiện xây dựng cơ sở An toàn làm chủ - sẵn sàng chiến đấu, vì
vậy hiện nay trên địa bàn xã không có người nghiện ma túy, không có tệ nạn xã
hội. Đồng thời, xã cũng đã làm tốt công tác hậu phương quân đội: Ban Chính sách
xã đã phối hợp với Ban Quân sự, Ban Công an rà soát các đối tượng là quân nhân
xuất ngũ, phục viên tham gia làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới, hải
đảo, làm nhiệm vụ quốc tế Lào, Căm pu chia để hưởng chính sách trợ cấp theo quy
định của Đảng và Nhà nước.
Công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể
Sau Đại hội Đảng bộ xã nhiệm
kỳ (2010 - 2015), Đảng ủy đã ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng cấp trên, quy chế làm việc, chương trình công tác hàng năm của Ban
Chấp hành, Ban Thường vụ đảm bảo vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra của cấp
ủy. Căn cứ vào quy chế, quy định của Đảng, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành luôn
duy trì chế độ hội nghị sinh hoạt, chế độ giao ban và công tác kiểm tra, giám
sát. Ban Chấp hành đã đề ra Nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh, toàn diện, nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng giai
đoạn 2010 - 2015. Trong quá trình tổ chức thực hiện, cấp ủy luôn chú trọng,
quan tâm nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, cải tiến lề lối làm
việc, mọi công tác lãnh đạo, chỉ đạo đều hướng về cơ sở. Công tác xây dựng Đảng
và phát triển đảng viên được chăm lo chu đáo. Vì vậy,
trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, số chi bộ trực thuộc được xếp loại trong sạch vững
mạnh đạt 75% KH; không có chi bộ yếu kém và không hoàn thành nhiệm vụ, đảng
viên hoàn thành nhiệm vụ trở lên đạt 99,87%, trong đó đảng viên hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ đạt 14,7%. Đảng bộ xã được Ban Thường vụ Huyện ủy đánh giá đạt
trong sạch vững mạnh trong cả nhiệm kỳ. Từ năm 2010 - 2015, đã kết nạp
được 59 đảng viên mới.
Cấp ủy luôn quan tâm chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện quản lý đủ số lượng, lấy hiệu quả công việc
để đánh giá cán bộ. Cuộc vận động của Bộ Chính trị “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị 03 được triển khai một cách nghiêm túc
từ việc xây dựng kế hoạch cho từng thời kỳ, thời gian cụ thể. Các tổ chức cá
nhân đều đăng ký phấn đấu xây dựng tiêu chuẩn đạo đức để thực hiện nhiệm vụ
chính trị ở lĩnh vực mình tham gia một cách tốt hơn. Cuộc vận động đã được đông
đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đón nhận và tham gia một cách tự
giác. Lấy việc hoàn thành nhiệm vụ là thước đo, tạo sự đoàn kết nhất trí cao
trong tổ chức và cá nhân, khơi dậy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết tương thân,
tương ái. Thực hiện cải cách hành chính phục vụ nhân dân, sửa đổi lề lối làm
việc, giảm bớt phiền hà cho nhân dân. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ
công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ. Nhờ đó, cuộc vận động đã góp phần đổi
mới và nâng cao chất lượng của cả hệ thống chính trị, thực hiện quy chế dân
chủ, giải quyết các vụ việc một cách nhanh chóng, hợp tình và đúng pháp luật,
giảm bớt đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp.
Hội đồng nhân dân đã tập trung nâng
cao chất lượng các kỳ họp, hoạt động giám sát của Thường trực hội đồng. Tăng
cường tiếp xúc cử tri, dành nhiều thời gian của các kỳ họp cho thảo luận, chất
vấn và trả lời chất vấn. Xây dựng Nghị quyết sát đúng với tình hình cụ thể của
xã nhà nên được chính quyền triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao. Bộ máy Ủy
ban nhân dân xã không ngừng được củng cố, đội ngũ cán bộ được bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ. Do vậy, hiệu quả công việc được nâng lên rõ rệt. Đổi mới phong
cách, lề lối làm việc, Ủy ban nhân dân đã bám sát các chủ trương của Đảng bộ và
Hội đồng nhân dân, cụ thể hóa bằng nhiều đề án, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần
chúng chính trị xã hội đã tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, xây
dựng hệ thống chính trị, làm tốt công tác từ thiện, nhân đạo đặc biệt là Mặt
trận Tổ quốc đã thực hiện tốt chương trình “Ngày vì người nghèo”. Trong hơn 3
năm qua, Mặt trận cũng như các đoàn thể đã vận động nhân dân ủng hộ hàng chục
triệu đồng và hàng trăm ngày công xóa được… nhà tranh tre tạm bợ. Hội nông dân
tạo điều kiện cho … hội viên vay vốn phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Các đoàn thể đã thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và dự án, xây dựng
các loại quỹ giúp nhau xóa đói giảm nghèo. Mặt khác, tổ chức tập huấn, trao đổi
kinh nghiệm và chuyển giao khoa học kỹ thuật, xây dựng các mô hình điển hình
tiên tiến. Đổi mới cách sinh hoạt, thu hút đoàn viên, hội viên tham gia các tổ
chức ngày càng đông. Do vậy, tỷ lệ tập hợp của Đoàn Thanh niên là 82%, Hội Nông
dân 87%, Hội Phụ nữ 84%, Hội Cựu chiến binh 92%.
Trải qua chặng đường 38 năm từ khi Tổ quốc được thống
nhất và sau gần 27 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Mai đã giành nhiều thành tích xuất sắc, tạo nên
những bước đột phá quan trọng, đưa Nghĩa Mai từ một xã đặc biệt khó khăn trở
thành một xã ngày càng phát triển có
nhiều khởi sắc của huyện Nghĩa Đàn. Có được những thành tựu đó, trước hết là do
Đảng bộ xã đã đề ra những bước đi thích hợp cho từng giai đoạn, sát đúng với
điều kiện cụ thể của địa phương, tạo được sự thống nhất trong Đảng, nhận được
sự ủng hộ, đồng thuận của nhân dân. Đó chính là sức mạnh đoàn kết, là động lực
thúc đẩy để Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Mai làm nên những kỳ tích này. Trên
bước đường đi tiếp vẫn còn không ít khó khăn, thử thách, chông gai, song chúng
ta hoàn toàn có quyền và được phép tin tưởng rằng, với truyền thống anh dũng
kiên cường, với tinh thần quyết tâm cao cùng với những kinh nghiệm quý báu tích
lũy được trong quá trình xây dựng quê hương, Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai nhất
định sẽ vượt qua mọi khó khăn thử thách để tiến những bước dài hơn nữa trong
quá trình thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Tiếp nối thành công trên con đường
phát triển, ngày 18.05.2015, đại hội Đảng bộ Nghĩa Mai lần thứ XXI, nhiệm kỳ
2015 - 2020 đã diễn ra thành công tại Hội trường Ủy ban nhân xã. Đại hội đã đề
ra mục tiêu tổng quát như sau: “Phát huy sức mạnh của toàn dân, huy động mọi
nguồn lực cho đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh
đúng hướng, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, chăm lo công tác xoá đói giảm
nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Đặc biệt
là các xóm bản vùng khó khăn có nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Tập trung giải quyết các vấn đề còn tồn đọng. Cũng cố và nâng cao chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ
chức Đảng và đảng viên. Xây dựng Đảng bộ, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể
quần chúng ngày càng vững mạnh. Quốc phòng - an ninh được tăng cường vững chắc.
Với tinh thần “Đoàn kết - Dân chủ -
Sáng tạo – Phát triển” Phấn đấu đưa Nghĩa Mai sớm ra khỏi xã đặc
biệt khó khăn, trở thành một xã khá của huyện”. Đại hội đã đề ra một số mục tiêu cụ
thể như sau: Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phấn đấu đạt: 7 - 9%. Giá trị
sản xuất bình quân đầu người (năm 2020)
đạt: 16,4 triệu đồng /người/năm. Thu ngân sách (năm 2020): đạt 6 - 7 tỷ đồng; Văn hóa - xã hội : Tỷ lệ gia đình
văn hóa: 85, tỷ lệ hộ nghèo: 8%, tỷ lệ
hộ gia đình dùng nước hợp vệ sinh: 65%, xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, trường
TH Nghĩa Mai A đạt chuẩn mức độ 2; trường TH Nghĩa Mai B; THCS; Mầm Non đạt
chuẩn quốc gia; năm 2020 đạt 15 tiêu chí Nông thôn mới; phấn đấu đến năm 2020
xây dựng ban công an, quân sự đạt đơn vị quyết thắng, tỷ lệ chi bộ đảng trực
thuộc đạt “trong sạch vững mạnh” đạt 50%, không có chi bộ Đảng yếu kém; chính
quyền được xếp loại Hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hàng năm; MTTQ và các đoàn
thể chính trị - xã hội được cấp trên xếp loại Hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên
hàng năm.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp
hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí, trong đó có 5 đồng chí là Ban Thường vụ:
1. Đồng chí Nguyễn Văn Dần - Bí thư Đảng ủy,
Chủ tịch HĐND
2. Đồng chí Hoàng Văn Nhường - Phó Bí thư, Chủ tịch UBND
3. Đồng chí Nguyễn Minh Trí Thường - CT Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
4. Đồng chí Lê Hải Long Thường vụ - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
5. Đồng chí Lê Thanh Hoàn Phó Bí thư.
kÕt luËn
Trải
qua quá trình lịch sử lâu dài, cùng với việc xác lập chủ quyền lãnh thổ, khai
phá và mở rộng đất đai, vùng đất Nghĩa Mai ngày càng trở nên đông đúc. Từ bàn
tay khối óc, sức lực và trí tuệ, cư dân nơi đây đã biến vùng rừng núi hoang vu
thành một vùng đất trù phú, cây trái, lúa và hoa màu quanh năm tươi tốt, đời
sống nhân dân ngày càng phát triển. Những nỗ lực của con người trong khai thác,
chế ngự và tranh đoạt với tự nhiên, xây dựng đời sống, đấu tranh chống các kẻ
thù xâm lược… đã tạo nên truyền thống lịch sử - văn hóa quê hương Nghĩa Mai.
Những truyền thống của dân tộc Thổ, Thái được nhân dân giữ vững và phát huy, vừa
mang nét riêng của xứ Nghệ, vừa chứa đựng những yếu tố chung đã góp phần làm
phong phú và đa dạng thêm bản sắc văn
hóa Nghĩa Đàn nói riêng, Nghệ An nói chung.
Từ
thủa sơ khai, trải qua các triều đại phong kiến lịch sử hay trong phong trào
Cần Vương, phong trào yêu nước và cách mạng 30 năm đầu thế kỷ XX, nhân dân Nghĩa
Mai luôn luôn tham gia hưởng ứng đông đảo, nhiệt tình. Đặc biệt từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, sức mạnh đại đoàn kết, ý chí đấu tranh của cán bộ,
đảng viên và nhân dân nơi đây lại càng được phát huy. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân Nghĩa Mai đã có những đóng góp tích cực, hiệu quả trong sự
nghiệp đấu tranh chống thế lực phong kiến, tay sai, các thế lực thù địch, các
hiện tượng, hành vi tiêu cực ảnh hưởng tới sự phát triển của địa phương.
Được
chia tách từ xã Tân Lập từ năm 1953 và thành lập chi bộ và phát triển thành
Đảng bộ riêng, cán bộ, đảng viên và nhân dân Nghĩa Mai đã cố gắng cao độ để
vượt qua thách thức ban đầu cũng như những khó khăn mới nảy sinh để thực hiện
tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, vươn lên tiến kịp các xã bạn. Những
năm thực hiện sự nghiệp đổi mới theo định hướng của Đảng, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của huyện nhà, Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai đã nhận thức được
những vấn đề cấp bách đặt ra trên chặng đường phát triển. Từ đó, đặt ra các mục
tiêu phù hợp với thực tế, khắc phục nhanh các mặt yếu kém, phát huy các tiềm
năng sẵn có và tận dụng tiềm lực địa phương để giành thắng lợi toàn diện cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Là xã miền núi có
đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống nên công tác tư tưởng luôn được chú
trọng, cán bộ đảng viên xãNghĩa Mai một mặt làm tốt công tác tuyên truyền, vận
động nhân dân, mặt khác luôn nghiêm túc và gương mẫu trong mọi hoạt động, tạo
dựng niềm tin vững chắc trong nhân dân, khơi dậy tối đa sức mạnh đoàn kết toàn
dân. Sức mạnh đó chính là nguồn lực để Nghĩa Mai đạt được thành công như ngày
hôm nay.
Sau
hơn 60 năm thành lập xã, Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai đã rút ra được những bài
học kinh nghiệm sau:
Một
là: mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung và Nghĩa Mai nói riêng luôn
gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đảng lãnh đạo là nhân tố cơ bản
nhất cho mọi thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, trong bất kỳ thời điểm lịch sử
nào, trong tình hình nào cũng luôn phải giữ vững và nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng (từ Đảng ủy xuống các chi bộ). Phải xây dựng sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng, trước hết là trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo. Không
ngừng chăm lo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về lập trường tư tưởng và trình độ, năng
lực chuyên môn. Luôn đổi mới công tác cán bộ, coi công tác cán bộ là nhiệm vụ
quan trọng nhất trong công tác tổ chức Đảng, có ý nghĩa quyết định trong việc
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Thường xuyên tiến hành liên tục, có kế
hoạch và đúng nguyên tắc công tác phát triển Đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống các biểu hiện suy thoái tư tưởng đạo đức trong Đảng, giữa lãnh đạo với
kiểm tra giám sát và chỉnh đốn Đảng để không ngừng nâng cao phẩm chất cách
mạng, sức chiến đấu của mỗi cán bộ, đảng viên. Chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ
đạo đi đôi với việc xây dựng Đảng bộ, chi bộ “Trong sạch vững mạnh”.
Hai
là: Sức mạnh của Đảng bộ là sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí không những
trong Đảng mà còn là sự đoàn kết của toàn dân trong đó Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức thành viên đóng vai trò quan trọng trong quá trình cách mạng giải phóng
dân tộc cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể quần chúng đảm bảo vững mạnh về mọi mặt đủ sức đảm đương các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, xã hội của địa phương. Qua đó, phát huy sức mạnh của hệ thống
chính trị, phục vụ cho mục đích xây dựng quê hương giàu mạnh. Đồng thời, khơi
dậy và phát triển truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của mọi
tầng lớp nhân dân vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế trong từng
giai đoạn lịch sử cụ thể.
Ba
là: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do dân và vì dân. Do đó, mỗi cán bộ,
đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng “Lấy dân làm gốc” và luôn luôn tâm niệm “Dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, “Tích cực học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đảng phải gắn bó mật thiết với
dân. Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân phải thông qua những hoạt động thực
tiễn, xuất phát từ quyền lợi của nhân dân. Muốn phát huy được khả năng cách
mạng to lớn của nhân dân, trước hết phải nâng cao đời sống vật chất, trình độ
dân trí, ý thức và năng lực làm chủ của nhân dân. Kiên quyết khắc phục tình
trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Trải
qua hàng trăm năm lịch sử, người dân Nghĩa Mai không những xây dựng xóm, bản ngày càng đông đúc giàu đẹp, mà còn
hình thành nên truyền thống tốt đẹp, tô đậm thêm lịch sử vẻ vang của quê hương,
đất nước. Truyền thống đó đã giúp Nghĩa Mai vượt qua mọi chông gai để sinh tồn
và phát triển. Vì vậy, khơi dậy, phát huy truyền thống và những giá trị tốt đẹp
là vấn đề mấu chốt góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển của Nghĩa
Mai.
Những
kinh nghiệm được rút ra từ thực tế lịch sử vẫn còn nguyên giá trị. Đó là nền
tảng vững chắc để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Nghĩa Mai vận dụng, phát huy
và giải quyết các vấn đề cụ thể đang đặt ra trên con đường đổi mới toàn diện
quê hương, đất nước. Tự hào với quá khứ vẻ vang Đảng bộ và nhân dân Nghĩa Mai
đang nỗ lực tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức viết tiếp những trang sử vẻ
vang trên quê hương, cùng cả nước vững bước đi lên trong thiên niên kỷ mới.
PHỤ LỤC
I. DANH SÁCH LIỆT SỸ NGHĨA MAI HY
SINH VÌ SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1930 - 2015)
TT
|
Họ và tên
|
Năm sinh
|
Năm nhập ngũ
|
Năm hy sinh
|
1
|
Nguyễn Văn
Sáng
|
1917
|
03.1948
|
23.04.1953
|
2
|
Lê Văn Đàm
|
1958
|
10.1977
|
10.03.1979
|
3
|
Lê Văn Đức
|
1962
|
04.1981
|
18.8.1982
|
4
|
Hoàng Văn
Định
|
1950
|
06.1968
|
26.12.1969
|
5
|
Đoàn Văn
Bút
|
1950
|
09.1972
|
22.11.1973
|
6
|
Cao Xuân C
|
1950
|
06.1968
|
28.07.1972
|
7
|
Lê Văn Cần
|
1949
|
07.1967
|
09.01.1970
|
8
|
Trương
Năng Cộng
|
1951
|
09.1968
|
29.04.1970
|
9
|
Mạc Văn
Chài
|
1954
|
05.1970
|
10.15.1971
|
10
|
Đặng Quang
Chế
|
1950
|
|
27.05.1986
|
11
|
Trương
Trung Chính
|
1950
|
12.1969
|
12.09.1972
|
12
|
Cao Văn
Hơn
|
1956
|
05.1974
|
14.02.1975
|
13
|
Hoàng Ngọc
Hải
|
1961
|
12.1980
|
30.06.1983
|
14
|
Lê Văn Hạt
|
1956
|
08.1976
|
28.06.1978
|
15
|
Hoàng Hữu
Hồng
|
1947
|
11.1964
|
15.10.1969
|
16
|
Nguyễn
Thái Hồng
|
1954
|
04.1970
|
15.12.1973
|
17
|
Lương Văn
Hiềm
|
1951
|
08.1969
|
02.08.1970
|
18
|
Lương Văn
Hoa
|
1951
|
12.1969
|
10.02.1972
|
19
|
Hoàng Xuân
Huấn
|
1952
|
08.1969
|
20.09.1974
|
20
|
Hoàng Minh
Khẩn
|
1952
|
05.1971
|
15.08.1972
|
21
|
Lê Văn Kỳ
|
1949
|
06.1968
|
01.06.1969
|
22
|
Trần Văn
Lan
|
1943
|
08.1967
|
05.04.1968
|
23
|
Trần Văn Lợt
|
1930
|
03.1949
|
15.07.1968
|
24
|
Lê Văn Lượt
|
1952
|
08.1970
|
22.09.1972
|
25
|
Lê Văn
Luật
|
1950
|
04.04.1969
|
5.25.1972
|
26
|
Lò Văn
Phòng
|
1960
|
08.1976
|
07.05.1977
|
27
|
Lê Văn Đài
|
1958
|
10.1977
|
05.06.1978
|
28
|
Phan Văn
Sinh
|
1956
|
10.1974
|
20.04.1986
|
29
|
Lê Văn Tấn
|
1949
|
09.1968
|
26.03.1971
|
30
|
Lương Văn
Thắng
|
1959
|
10.1977
|
13.08.1978
|
31
|
Cao Văn
Thanh
|
1952
|
04.1970
|
21.07.1971
|
32
|
Vi Văn Thước
|
1951
|
05.1971
|
15.10.1971
|
33
|
Lê Văn Thử
|
1950
|
|
9.18.1979
|
34
|
Lô Văn
Thuật
|
1960
|
10.1977
|
09.10.1978
|
35
|
Sầm Văn
Toán
|
1949
|
09.1968
|
09.04.1971
|
36
|
Hoàng Minh
Trúc
|
1952
|
4.16.1970
|
14.10.1971
|
37
|
Nguyễn Văn
Tuế
|
1950
|
04.1970
|
28.11.1972
|
38
|
Lê Minh
Văn
|
1958
|
10.1978
|
25.11.1981
|
39
|
Hoàng
Quang Vịnh
|
1949
|
08.1966
|
29.04.1974
|
II. DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ NGHĨA MAI QUA CÁC THỜI KỲ
Khóa
|
Họ và tên
|
Chức vụ
|
Năm
|
Thời kỳ
chi bộ
Khóa I
|
1. Lê Văn Thắng
2. Lê Văn Minh
3. Lê Khắc Giá
4. Lê Văn Nhiên
5. Trương Văn
|
Bí thư
Chủ tịch
Phó chủ tịch
Ủy viên UB
Thư ký
|
Từ 1954
đến 1955
|
Khóa II
|
1. Cao Văn Điều
2. Lê Văn Hải
3. Lò Văn Chung
4. Lê Văn Minh
5. Lê Văn Nhiên
|
Bí thư
Chủ tịch (1955)
Trực Đảng
Chủ tịch (1956)
Phó chủ tịch
|
Từ 1955
đến 1956
|
Khóa III
|
1. Lương Văn Ón
2. Lê văn Minh
3. Lê Công Tàu
4. Cao Văn Chúc
5. Lê Văn Nhiên
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Phó chủ tịch
|
Từ 1956
đến 1957
|
Khóa IV
|
1. Trương Văn
2. Cao Văn Nhiên
3. Cao Văn Chúc
4. Cao Văn Điều
5. Lê Văn Đương
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Chấp hành
Phó chủ tịch
|
Từ
1957
đến
1958
|
Thời kỳ
Đảng bộ
Khóa I
|
1. Cao Văn Điều
2. Lê Văn Nhiên
3. Lê Công Tàu
4. Cao Văn Điều
5. Hoàng Hữu Trầm
6. Lê Văn Đương
7. Lê Văn Cảnh
|
Bí thư
Chủ tịch xã (ốm nghỉ )
Trực Đảng
Chủ tịch, -thay đ/c Nhiên
Phó chủ tịch
Bí thư, thay ông Điều
|
Năm
1959
|
Khóa II
|
1. Lê Văn Cảnh
2. Cao Văn Điều
3. Trương Văn
4. Lê Văn Đương
5. Hoàng Trọng Thường
6. Vi Đức Thành
7. Lê Minh Hưng
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Trực UB
Xã đội
Thanh niên
|
Từ
1959
đến
1960
|
Khóa III
|
1. Lê Công Tàu
2. Cao Văn Điều
3. Cao Văn Chúc
4. Lê Văn Đương
5. Cao Văn Nhiên
6. Lê Dương Lệ
7. Vi Đức Thành
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Trực UB
Xã đội
|
Từ
1960
đến
1962
|
Khóa IV
|
1. Lê Văn Cảnh
2. Cao Văn Điều
3. Cao Văn Chúc
4. Hoàng Hữu Trầm
5. Lê Minh Hưng
6. Vi Đức Thành
7. Lê Hồng Việt
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Trực UB
Xã đội
Thanh niên
|
Từ
1962
đến
1965
|
Khóa V
|
1. Cao Văn Chúc
2. Lê Hồng Phú
3. Lê Minh Hưng
4. Hoàng Hữu Trầm
5. Lê Minh Thư
6. Hoàng Văn Dư
7. Vi Đức Thành
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Trực UB
Xã đội
Xã đội, thay ông Dư
|
Từ
1965
đến
1967
|
Khóa VI
|
1.Vi Đức Thành
2. Hoàng Hữu Nghị
3. Lê Công Tàu
4. Lê Minh Hưng
5. Lò Kim Sơn
6. Lê Thị Hường
7. Lê Văn Ảnh
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Trực UB
Xã đội
Thanh Niên
Kế xã
|
Từ
1967
đến
1969
|
Khóa VII
|
1. Cao Văn Chúc
2. Hoàng Hữu Nghị
3. Cao Văn Lục
4. Nguyễn Đình Liên
5. Lang Văn Xàng
6. Lê Thị Ý
7. Lê Minh Thư
8. Lê Văn Ảnh
9. Lò Kim Sơn
10. Lê Văn Kỷ
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Trực thay ông Lục
Phó nội chính
Phó Lâm nghiệp
CT,thay ô Nghị cuối NK
Trực UB
Xã đội
Thanh niên
|
Từ
1969
đến
1971
|
Khóa VIII
|
1. Lê Minh Thư
2. Cao Văn Lục
3. Nguyễn Đình Liên
4. Lang Văn Xàng
5. Lê Dương Lệ
6. Trương Minh Hợp
7. Lê Văn Ảnh
8. Lê Văn Kỷ
9. Nguyễn Hồ Trung
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Trực UB
Xã đội
Cơ sở, CN Bái thai
Thanh niên
Mặt trận
|
Từ
1971
đến
1973
|
Khóa IX
|
1. Lê Minh Thư
2. Cao Văn Lục
3. Lang Văn Xàng
4. Hoàng Hữu Nghị
5. Trương Minh Hợp
6. Lê Dương Lệ
7. Lê Thị Ý
8. Lê Văn Kỷ
9. Cao Thanh Kiểm
10. Lê Văn Ảnh
11. Lê văn Niêm
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Công An
Xã đội
TN (1974 O Hường thay)
Kế toán ngân sách xã
Trực UB
Cơ sở, CN.HTX Bui Thai
Cơ sở, CN.HTX Yên Bái
|
Từ
1973
đến
1975
|
Khóa X
|
1. Cao Văn Lục
2. Hoàng Hữu nghị
3. Lê Văn Dựa
4. Lê Văn Niêm
5. Lê Minh Hưng
6. Trương Minh Hợp
7. Cao Thanh Kiểm
8. Lê Văn Kỷ
9. Trương Minh Niêm
10. Lang Văn Xàng
11. Trần Thế Tiến
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Trực Đảng thay đ/c Dựa
Phó chủ tịch
Công An
Trực UB
Dân Vận
Xã đội
Cơ sở, HTX Long Thành
Thanh niên
|
Từ
1976
đến
1977
|
Khóa XI
|
1. Cao Văn Lục
2. Lê Minh Hưng
3. Lê Văn Niên
4. Cao Thanh Kiểm
5. Lê Văn Ảnh
6. Vi Đức Tính
7. Lê Văn Kỷ
8. Trương Công Bằng
9. Lang Văn Xàng
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Trực UB
Xã đội
Trực UB thay đ/c Ảnh
Xã đội thay đ/c Tính
Mặt Trận
|
Từ
1977
đến
1979
|
Khóa XII
|
1. Cao Văn Lục
2. Cao Thanh Kiểm
3. Lê Văn Niêm
4. Lang Văn Xàng
5. Lê Văn Kiểu
6. Trương Công Bằng
7.
Đức Kỷ
8. Lê Văn Kỷ
9. Lê Văn Niên
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Trực UB
Xã đội
CNHTX
UV Thủy lợi thay ô Vinh
Lâm nghiệp giao thông
|
Từ
1979
đến
1981
|
Khóa XIII
|
1. Lê Minh Thư
2. Cao Thanh Kiểm
3. Hoàng Hữu Nghị
4. Lang Văn Xàng
5. Lê văn Kiểu
6. Cao Văn Lục
7. Trương Minh Niêm
8. Lê Văn Kỷ
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Trực UB
MT.Trưởng ban KSHTX
Xã đội
CNHTX, Nông Dân
|
Từ
1981
đến 1984
|
Khóa XIV
|
1. Cao Văn Lục
2. Cao Thanh Kiểm
3. Lê Văn Kỷ
4. Lê Văn Kiểu
5. Hoàng Đình Thức
6. Lê Hồng Dương
7. Lê Minh Hưng
8. Cao Sơn Hà
9. Trương văn Cảnh
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Thay ông Kỷ trực Đảng
CNHTX
Xã đội
Phó chủ tịch
Xã đội, thay ông Dương
Cơ sở, Kiểm tra Đảng
|
Từ
1984
đến
1990
|
Khóa XV
|
1. Hoàng Đình Thức
2. Cao văn Dũng
3. Cao Minh Duyên
4. Lê Văn Kiểu
5. Cao Sơn Hà
6. Nguyễn Thế Văn
7. Lê Văn Tiện
8. Lê Hải Long
9. Trương Văn Cảnh
|
Bí thư, Chủ tịch xã
Phó Chủ tịch
Trực Đảng thư ký HĐ
CNHTX
Xã đội
Kế toán
Công an
Nông dân
Cơ sở,Kiểm tra Đảng
|
Từ
1990
đến
1994
|
Khóa XVI
|
1. Lê Văn Kỷ
2. Cao Văn Dũng
3. Cao Minh Duyên
4. Lê Văn Tiện
5. Ngô Minh Tú
6. Cao Văn Bằng
7. Vi Văn Đua
8. Nguyễn Thế Văn
9. Cao Sơn Hà
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Công an
Xã đội
Thanh niên
Mặt trận
Nông nghiệp
Phó chủ tịch HĐ
|
Từ
1994
đến
1996
|
Khóa XVII
|
1. Lê Văn Kỷ
2. Cao Văn Dũng
3. Cao Minh Duyên
4. Ngô Minh Tú
5. Lê Văn Tiện
6. Cao Văn Bằng
7. Vi Văn Đua
8. Nguyễn Thế Văn
9. Cao Sơn Hà
|
Bí thư
Chủ tịch
Trực Đảng
Phó chủ tịch
Công an
Thanh niên
Mặt trận
Nông nghiệp
Phó chủ tịch HĐ
|
Từ
1996
đến
2000
|
Khóa XVIII
|
1. Lê Văn Kỷ
2. Cao Văn Dũng
3. Vi Văn Đua
4. Ngô Minh Tú
5. Cao Văn Bằng
6. Cao Thanh Bình
7. Vũ xuân Hiển
8. Nguyễn Đình Luyên
9. Lê Thị Cương
10. Lê Văn Giáp
11. Cao Thị Liên
|
BT (1/2004 ôThành thay)
Chủ tịch
Trực Đảng, CTHĐND
Phó chủ tịch
Phó chủ tịch HĐND Thanh niên
Mặt trận
Cơ sở, kế toán xã
Cơ sở mầm non
Xã đội
Phụ Nữ
|
Từ 2000
đến 2005
|
Khóa XIX
|
1. Ngô Văn Thành
2. Vi Văn Đua
3. Vũ Xuân Hiển
4. Lê Hải Long
5. Hoàng Văn Nhường
6. Ngô Minh Tú
7. Cao Thị Liên
8. Cao Khắc Diện
9. Cao Trọng Bé
10. Lê Thị Cương
11. Trương Văn Cảnh
12. Lê Văn Tiện
|
Bí thư
Phó Bí thư
Phó BT-CT HĐND
CT UBMTTQ
PCT UBND xã
Chủ tịch UBND xã
CT Hội LHPN
CT Hội Cựu chiến binh
CT hội nông dân
Bí thư CB trường Mầm non
Bí thư CB 3C
Trưởng Công an
|
Từ 2005-2010
|
Khóa XX
|
1. Vi Văn Đua
2. Vũ Xuân Hiển
3. Hoàng Văn Nhường
4. Ngô Minh Tú
5. Lê Hải Long
6. Nguyễn Văn Dần
7. Cao Trọng Bé
8. Cao Khắc Diện
9. Cao Thị Liên
10. Cao Văn Bằng
11. Nguyễn Chí Công
12. Hoàng Thị Giang
13. Lê Văn Tiện
14. Hoàng Văn Sơn
15. Cao Văn Lan
16. Lê Văn Thông
|
Bí thư
PBT. CT HĐND
PBT-CT UBND
CT UBMTTQ
PCT UBND
PCT UBND
PCT HĐND
CT Hội CCB
CT Hội LHPN
CT hội nông dân
VP Thống kê
Kế toán
Trưởng Công an
Chỉ huy trưởng Quân sự
Bí thư CB 7A
Bí thư CB 6B
|
Từ 2010-2015
|
Khóa XXI
|
1. Nguyễn Văn Dần
2. Lê Thanh Hoàn
3. Hoàng Văn Nhường
4. Ngô Minh Tú
5. Lê Hải Long
6. Nguyễn Ánh Hồng
7. Hoàng Hữu Bắc
8. Cao Văn Bằng
9. Cao Thị Hồng
10. Trương Thị Thanh
11. Lê Văn Thông
12. Lê Thanh kiên
13. Dương Minh Hùng
|
Bí thư Đảng ủy
PBT Đảng ủy
PBT/ĐU-CT UBND
CT UBMTTQ
PCT UBND
PCT UBND
PCT HĐND
CT Hội nông dân
CT Hội LHPN
VP HĐND-UBND
Bí thư CB 6B
Bí thư CB 3A
Bí thư CB Trường tiểu học
Nghĩa Mai A
|
Từ 2015-2020
|
|
|
|
|
|
III. DANH SÁCH BÍ THƯ ĐẢNG
ỦY QUA CÁC THỜI KỲ
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Lê Văn Thắng
|
8.1953 - 1.1955
|
2
|
Cao Văn Điều
|
1.1955 - 11.1956
|
3
|
Lương Văn Ón
|
12.1956 - 12.1957
|
4
|
Trương Văn Nam
|
12.1957 - 11.1958
|
5
|
Cao Văn Điều
|
11.1958 - 12.1959
|
6
|
Lê Văn Cảnh
|
12.1959 - 12.1960
|
7
|
Lê Công Tàu
|
12.1960 - 12.1962
|
8
|
Lê Văn Cảnh
|
12.1962 - 12.1964
|
9
|
Cao Văn Chúc
|
1.1965 - 12.1967
|
10
|
Vi Đức Thành
|
12.1967 - 11.1968
|
11
|
Cao Văn Chúc
|
11.1968 - 3.1973
|
12
|
Lê Minh Thư
|
4.1973 - 5.1975
|
13
|
Cao Văn Lục
|
6.1975 - 7.1981
|
14
|
Lê Minh Thư
|
8.1981 - 8.1984
|
15
|
Cao Văn Lục
|
8.1984 - 12.1990
|
16
|
Hoàng Đình Thức
|
1.1991 - 5.1994
|
17
|
Lê Văn Kỷ
|
6.1994 - 1.2004
|
18
|
Ngô Văn Thành
|
1.2004 - 6.2006
|
19
|
Vi Văn Đua
|
7.2006 - 5.2015
|
20
|
Nguyễn Văn Dần
|
5.2015 – 6.2020
|
21
|
Trần Đăng Huy
|
6.2020 đến nay
|
IV. DANH SÁCH PHÓ BÍ THƯ -
TRỰC ĐẢNG
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Trương Văn Nam
|
1.1954 - 12.1957
|
2
|
Lê Văn Chung
|
12.1957 - 12.1958
|
3
|
Lê Công Tàu
|
12.1958 12.1959
|
4
|
Trương Văn Nam
|
12.1959 - 12.1962
|
5
|
Cao Văn Chúc
|
12.1962 - 12.1964
|
6
|
Nguyễn Văn Tương
|
12.1964 - 11.1965
|
7
|
Lê Minh Hương
|
11.1965 - 06.1969
|
8
|
Cao Văn Lục
|
12.1969 - 5.1970
|
9
|
Nguyễn Đình Liên
|
06.1970 - 04.1973
|
10
|
Lang Văn Xàng
|
04.1973 - 4.1975
|
11
|
Lê Văn Dựa
|
8.1975 - 11.1976
|
12
|
Lê Văn Niêm
|
12.1976 - 3.1981
|
13
|
Hoàng Hữu Nghị
|
04.1981 - 6.1984
|
14
|
Lê Văn Kỷ
|
7.1984 - 1.1990
|
15
|
Cao Minh Duyên
|
2.1990 - 12.1996
|
16
|
Vi Văn Đua
|
12.1996 - 6.2005
|
17
|
Vũ Xuân Hiển
|
7.2005 - 5.2015
|
18
|
Lê Thanh Hoàn
|
6.2015 đến nay
|
V. DANH SÁCH CHỦ TỊCH ỦY
BAN
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Lê Văn Minh
|
8.1953 - 11.1956
|
2
|
Lê Văn Hải
|
11.1956 - 12.1957
|
3
|
Lê Văn Minh
|
12.1957 - 4.1958
|
4
|
Lê Văn Nhiên
|
4.1958 - 12.1959
|
5
|
Cao Văn Điều
|
12.1959 - 12.1964
|
6
|
Lê Văn Phúc
|
1.1965 - 4.1967
|
7
|
Hoàng Hữu Nghị
|
4.1967 - 3.1971
|
8
|
Cao Văn Lục
|
4.1971 - 7.1975
|
9
|
Hoàng Hữu Nghị
|
8.1975 - 4.1977
|
10
|
Lê Minh Hưng
|
5.1977 - 11.1977
|
11
|
Cao Thanh Kiểm
|
12.1977 - 1.1990
|
12
|
Hoàng Đình Thức
|
1.1990 - 5.1994
|
13
|
Cao Văn Dũng
|
6.1994 - 4.2002
|
14
|
Ngô Minh Tú
|
4.2002 - 7.2010
|
15
|
Hoàng Văn Nhường
|
8.2010 - 6.2020
|
16
|
Đoàn Văn Huấn
|
6.2020 đến nay
|
VI. DANH SÁCH PHÓ CHỦ TỊCH ỦY BAN
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Lê Khắc Giá
|
3.1953 - 3.1954
|
2
|
Hoàng Thị Phên
|
3.1954 - 12.1956
|
3
|
Cao Văn Chúc
|
1.1957 - 4.1958
|
4
|
Lê Văn Đương
|
4.1958 - 5.1963
|
5
|
Hoàng Hữu Trầm
|
5.1963 - 4.1967
|
6
|
Lang Văn Xàng
|
5.1967 - 4.1971
|
7
|
Lê Thị Ý
|
5.1967 - 4.1971
|
8
|
Lang Văn Xàng
|
4.1971 - 4.1973
|
9
|
Hoàng Hữu Nghị
|
4.1973- 4.1975
|
10
|
Lê Minh Hưng
|
4.1975 - 4.1977
|
11
|
Lê Văn Ảnh
|
5.1977 - 1.1979
|
12
|
Lang Văn Xàng
|
2.1979 - 4.1983
|
13
|
Lê Minh Hưng
|
5.1983 - 4.1990
|
14
|
Cao Văn Dũng
|
5.1990 - 5.1994
|
15
|
Lê Văn Tiện
|
6.1994 - 12.1999
|
16
|
Ngô Văn Tú
|
1.2000 - 1.2002
|
17
|
Lê Văn Tiện
|
2.2002 - 4.2004
|
18
|
Nguyễn Văn Dần
|
5.2004 - 5.2015
|
19
|
Hoàng Văn Nhường
|
5.2004 - 8.2010
|
20
|
Lê Hải Long
|
8.2010 - 10.2014
|
21
|
Nguyễn Ánh Hồng
|
7.2015 đến nay.
|
22
|
Hoàng Hữu Bắc
|
6.2020 đến nay
|
VII. DANH SÁCH CHỦ TỊCH MẶT TRẬN TỔ
QUỐC
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Lê Văn Kiểu
|
1991 - 1994
|
2
|
Vi Văn Đua
|
1994 - 2000
|
3
|
Vũ Xuân Hiển
|
2000 - 2005
|
4
|
Lê Hải Long
|
2006 - 2010
|
5
|
Ngô Minh Tú
|
2010 - 2015
|
VIII. DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI PHỤ NỮ
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Lê Thị Lúa
|
6.1954 - 12.1956
|
2
|
Hoàng Thị Phèn
|
1.1957 - 3.1957
|
3
|
Trương Thị Có
|
4.1957 4.1958
|
4
|
Lê Thị Tửu
|
4.1958 - 4.1959
|
5
|
Lê Thị Lúa
|
4.1959 - 1.1962
|
6
|
Lê Thị Nhị
|
1.1962 - 1.1964
|
7
|
Trương Thị Luật
|
1.1964 - 11.1965
|
8
|
Lò Thị Xuân
|
11.1965 - 12.1967
|
9
|
Cao Thị Ý
|
12.1967 - 12.1968
|
10
|
Lê Thị Duyên
|
12.1968 - 12.1969
|
11
|
Hoàng Thị Sửu
|
12.1969 - 10.1970
|
12
|
Dương Thị Tùng
|
10.1970 - 1.1972
|
13
|
Lê thị Dũng
|
1.1972 - 4.1975
|
14
|
Nguyễn Thị Tân
|
4.1975 - 1997
|
15
|
Nguyễn Thị Chiên
|
1997 - 2001
|
16
|
Cao Thị Liên
|
2001 - 10.2014
|
IX. DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI NGƯỜI CAO
TUỔI
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Diêu Ngọc Quế
|
1991 - 2000
|
2
|
Trương Minh Ngoạt
|
2001 - 2004
|
3
|
Lê Châu Yên
|
2005 - 2009
|
4
|
Cao Văn Lục
|
2010 - 2015
|
5
|
Nguyễn Đình Thức
|
2015 - 2020
|
X. DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI
CỰU CHIẾN BINH
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Diêu Ngọc Quế
|
30.12.1992 - 1997
|
2
|
Ngô Đình Tâm
|
1997 - 2001
|
3
|
Cao Duy Thuần
|
2001 - 2006
|
4
|
Cao Khắc Diện
|
2006 - 2012
|
5
|
Cao Khắc Diện
|
2012 - 2017
|
XI. DANH SÁCH CHỦ TỊCH HỘI
NÔNG DÂN
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Lê Hải Long
|
|
2
|
Cao Trọng Bé
|
|
3
|
Cao Văn Bằng
|
|
XII. DANH SÁCH BÍ THƯ ĐOÀN
THANH NIÊN
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Trương Văn Lâm
|
6.1954 - 12.1955
|
2
|
Cao Văn Lục
|
12.1955 - 1.1957
|
3
|
Vi Văn Tinh
|
1.1957 - 12.1960
|
4
|
Lê Minh Hưng
|
12.1960 - 10. 1963
|
5
|
Trương Hồng Việt
|
10.1963 - 3.1966
|
6
|
Hoàng Minh Duyên
|
3.1966 - 3.1967
|
7
|
Lê Thị Hường
|
3.1967 - 11.1968
|
8
|
Hoàng Minh Sáu
|
11.1968 - 6.1969
|
9
|
Cao Thanh Kiểm
|
7.1969 -10.1970
|
10
|
Lô Văn Kỷ
|
10.1970 - 5.1973
|
11
|
Lê Thị Ý
|
5.1973 - 5.1974
|
12
|
Nguyễn Thị Hường
|
5.1974 - 4.1975
|
13
|
Trần Thị Tiến
|
5.1975 - 1976
|
14
|
Lê Minh Khang
|
|
15
|
Trương Minh Quyền
|
|
16
|
Cao Khắc Diện
|
|
17
|
Hồ Văn Cường
|
|
18
|
Đoàn Văn Luyện
|
|
19
|
Tô Văn Nhiện
|
4.1980 - 1993
|
20
|
Cao Văn Bằng
|
1993 - 1999
|
21
|
Cao Thanh Bình
|
1999 - 5.2004
|
22
|
Hoàng Văn Sơn
|
6.2004 - 1.2008
|
23
|
Nguyễn Chí Công
|
2.2008 - 1.2012
|
24
|
Lê Thanh Hoàn
|
2.2012 - 9.2015
|
25
|
Nguyễn Thị Hoài Ân
|
9.2015 - 5.2017
|
XIII. DANH SÁCH XÃ ĐỘI
TRƯỞNG
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Lê Văn Thắm
|
3.1953 - 11.1955
|
2
|
Trương Văn Nghiêm
|
11.1955 - 4.1957
|
3
|
Lê Văn Lộc
|
4.1957 - 4.1959
|
4
|
Vi Đức Thành
|
6.1960 - 4.1963
|
5
|
Hoàng Văn Dư
|
4.1963 - 4.1965
|
6
|
Hoàng Minh Sáu
|
4.1965 - 4.1967
|
7
|
Lò Kim Sơn
|
4.1967 - 4.1971
|
8
|
Trương Minh Hợp
|
4.1971 - 4.1973
|
9
|
Lê Dương Lễ
|
4.1973 - 4.1975
|
10
|
Lê Dương Lễ
|
4.1975 - 4.1976
|
11
|
Trương Minh Niêm
|
4.1976 - 4.1977
|
12
|
Vi Đức Tính
|
4,1977 - 5.1979
|
13
|
Trương Công Bằng
|
6.1979 - 5.1981
|
14
|
Trương Minh Niên
|
6.1981 - 6.1984
|
15
|
Lê Hồng Dương
|
7.1984 - 4.1987
|
16
|
Cao Sơn Hà
|
4.1987 - 11.1994
|
17
|
Ngô Minh Tú
|
12.1994 - 12.1999
|
18
|
Lê Văn Giáp
|
12.1999 - 1.2008
|
19
|
Hoàng Văn Sơn
|
1.2008 - 10.2014
|
XIV. DANH SÁCH TRƯỞNG CÔNG AN
TT
|
Họ và tên
|
Thời gian
|
1
|
Lê Văn Tuyên
|
3.1959 - 3.1957
|
2
|
Hoàng Hữu Thuế
|
4.1957 - 4.1961
|
3
|
Lê Dương Lễ
|
4.1961- 4.1964
|
4
|
Hoàng Hữu Trầm
|
4.1964 - 4.1967
|
5
|
Lê Văn Nại
|
4. 1967 - 4.1971
|
6
|
Trương Minh Hợp
|
4.1971 - 5.1977
|
7
|
Lê Văn Tiện
|
5.2004 - 10.2014
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo
trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt , năm 2006, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội,
2.
Tỉnh ủy Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930 - 1954), năm 1998, tập 1,
Nxb Chính trị Quốc gia.
3.
Tỉnh ủy Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1954 - 1975), năm 1999, tập 2,
Nxb Nghệ An
4.
Tỉnh ủy Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1975 - 2005), năm 2008, tập 3,
Nxb Chính trị Quốc gia,
5. Lịch
sử Đảng bộ huyện Nghĩa Đàn (1930 - 2008), năm 2010, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
6. Nghĩa Đàn - Đất nước - con người, năm
2010, Nxb văn hóa thông tin,
7. Các triều đại Việt , năm 1995, Nxb Thanh Niên,
8. Từ
điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, năm 2000, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
9. Kỷ
yếu hội thảo khoa học 65 năm Xô viết Nghệ Tĩnh, năm 1996, Sở văn hóa thông
tin, Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh
11. Tài liệu thành văn của Ban sưu tầm Lịch sử
Đảng bộ xã Nghĩa Mai
12. Các Nghị quyết, báo cáo, tổng kết, thống
kê…của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân và một số ban ngành đoàn thể xã Nghĩa Mai.