Như chúng ta đã biết bạo lực là hành vi
xấu gây tổn thương đến người khác bằng hành động hoặc lời nói. Bạo lực gia đình
là ngược đãi, đánh đập, gây áp lực khiến những thành viên khác trong gia đình
bị tổn thương về mặt tâm lý và sức khỏe. Không chỉ thế bạo lực gia đình còn
được hiểu là sự xúc phạm, ép buộc và cưỡng chế những thành viên khác trong gia
đình. Bạo lực gia đình khiến hạnh phúc tan vỡ, tổn thương về mặt tâm lý, tình
cảm khiến cho những đứa trẻ trong gia đình ấy có thể bị ảnh hưởng xu hướng bạo
lực từ gia đình.
Nhắc đến bạo lực gia đình chúng ta thường
nghĩ đến chồng đánh vợ, con đánh cha mẹ thế nhưng dạo gần đây nổi cộm lên vấn
nạn vợ giết chồng, chống giết vợ. Cuộc sống ngày nay dường như đã bị đảo điên
một cách nghiêm trọng, mới hồi nào chúng ta còn đau đớn đầy thương xót cho thân
phận người phụ nữ xưa bị chà đạp không có tiếng nói thì bây giờ chị em phụ nữ
đã vùng dậy và " đánh trả" một cách mạnh mẽ. Vậy là khi người phụ nữ
lấy lại được tiếng nói của mình thì một số người lại giở thói vũ phu, theo chân
đáng nam nhi tự chà đạp hạnh phúc của gia đình mình. Chúng ta đều là con người
và không có chuyện ai phải nghe theo ai, hạnh phúc trên đời đâu thể mua được
bằng tiền, hạnh phúc cũng chẳng thể cưỡng ép hay dùng hành động cưỡng chế vậy
nên dù là nam hay nữ, dù đúng hay sai thì vẫn hay tôn trọng và thông cảm cho
nhau, rồi mọi chuyện sẽ qua đi và đừng để vài phút bốc đồng mà làm tổn thương
đến người mà mình yêu thương và gắn bó hết đời.
Ngày 14 tháng 11 năm 2022, tại kỳ họp thứ
4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV đã thông
qua, một lần nữa lên án và có chế taì cụ thể trong vấn đề bạo lực gia
đình . Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 có hiệu lực từ ngày 01/07/2023 gồm 6 chương,
56 điều, quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, bảo vệ, hỗ trợ, xử lý vi phạm trong
phòng, chống bạo lực gia đình; điều kiện bảo đảm phòng, chống bạo lực gia đình;
quản lý Nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong
phòng, chống bạo lực gia đình. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2023.
Dưới
đây là 10 điểm mới đáng chú ý nhất của Luật Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình năm 2022 cụ thể như sau:
1. Bổ sung thêm nhiều định nghĩa
Một trong những điểm mới của Luật Phòng
chống bạo lực gia đình là đã bổ sung Điều 2 giải thích từ ngữ được sử dụng
trong Luật này. Cụ thể gồm định nghĩa của cấm tiếp xúc; nơi tạm lánh; giáo dục
hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình.
Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 không có
Điều, khoản giải thích từ ngữ được sử dụng trong Luật mà chỉ nêu định nghĩa về
bạo lực gia đình tại khoản 2 Điều 1 về phạm vi điều chỉnh. Riêng định nghĩa bạo
lực gia đình thì Luật năm 2022 đã bổ sung thêm hậu quả “có khả năng gây tổn hại
về tình dục” là biểu hiện của hành vi bạo lực gia đình, cụ thể:
1.
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế đối với thành
viên khác trong gia đình.
Trong khi đó, khoản 2 Điều 1 Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2007 chỉ định nghĩa:
2. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành
viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần,
kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
2.
Có 16 hành vi bạo lực gia đình từ 01/7/2023
Nếu như tại Điều 2 Luật Phòng chống bạo
lực gia đình năm 2007 quy định, có 09 hành vi bị xem là bạo lực gia đình thì:
Điều 2. Các
hành vi bạo lực gia đình
1. Các hành
vi bạo lực gia đình bao gồm:
a) Hành
hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc
hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên
về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Ngăn cản
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu;
giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép
quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn;
cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ
hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành
viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép
thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ;
kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về
tài chính;
i) Có hành vi trái
pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Tại Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2022
đã nâng các hành vi bị coi là bạo lực gia đình lên 16 hành vi và sửa đổi một số
hành vi, cụ thể tại Khoản 1, điều 3 Luật Phòng chống bạo lực gia đình 2022 quy
định:
Hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, đe dọa hoặc hành vi cố ý khác xâm
hại đến sức khỏe, tính mạng;
b) Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự,
nhân phẩm;
c) Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp
lực thường xuyên về tâm lý;
d) Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên
gia đình là trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không
giáo dục thành viên gia đình là trẻ em;
đ) Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực
của thành viên gia đình;
e) Ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, có quan hệ xã
hội hợp pháp, lành mạnh hoặc hành vi khác nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên
về tâm lý;
g) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình
giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em
với nhau;
h) Tiết lộ hoặc phát tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân và bí mật gia đình của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân
phẩm;
i) Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của vợ
hoặc chồng;
k) Cưỡng ép trình diễn hành vi khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh,
xem hình ảnh, đọc nội dung khiêu dâm, kích thích bạo lực;
l) Cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở kết hôn, ly hôn
hợp pháp;
m) Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi;
n) Chiếm đoạt, hủy hoại tài sản chung của gia đình hoặc tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình;
o) Cưỡng ép thành viên gia
đình học tập, lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm
soát tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng lệ thuộc
về mặt vật chất, tinh thần hoặc các mặt khác;
p) Cô lập, giam cầm thành viên
gia đình;
q) Cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp trái pháp
luật.
Ở đây đã bổ sung mới các hành vi”
- Bổ sung mới:
+ Cưỡng ép chứng kiến
bạo lực với người, vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý.
+ Bỏ mặc, không
quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả
năng tự chăm sóc (là thành viên gia đình); không giáo dục thành viên gia đình
là trẻ em.
+ Kỳ thị, phân biệt
đối xử về giới, giới tính, hình thể, năng lực của thành viên gia đình;
+ Tiết lộ/phát
tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và gia đình của thành viên
gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
+ Cưỡng
ép trình diễn khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội dung
khiêu dâm, kích thích bạo lực.
+ Cưỡng ép mang
thai, lựa chọn giới tính thai nhi, phá thai;
+ Cô lập, giam
cầm thành viên gia đình;
+ Cưỡng ép
thành viên gia đình học tập.
- Đồng thời Sửa đổi hành vi : Từ “Cưỡng ép quan hệ tình dục” thành “Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục
trái ý muốn của vợ hoặc chồng”.
Như vậy, so với quy định hiện hành chỉ có
09 hành vi bạo lực gia đình, Luật mới đã tăng lên 16 hành vi trong đó có nhiều
hành vi mà trước nay nhiều người chưa nghĩ tới đó là bạo lực gia đình và không
lường trước được hậu quả có thể
xảy ra.
3. Mở rộng đối tượng bạo lực gia đình
ngoài hôn nhân
Nhiều người nghĩ rằng,
bạo lực gia đình chỉ áp dụng với các thành viên gia đình hiện tại của nhau hoặc
giữa những người đang có quan hệ hôn nhân và gia đình mà không áp dụng với
những người đã ly hôn, chung sống với nhau như vợ chồng, người đã từng là cha
mẹ nuôi, con nuôi…
Tuy nhiên, đây
là mối quan hệ khá đặc thù, dễ có tiếp xúc trong cuộc sống, thậm chí còn là các
mối quan hệ thường xuyên nảy sinh xung đột, bạo lực.
Và thực tế cho thấy, hiện nay có rất nhiều vụ bạo lực liên
quan đến các thành viên gia đình của người đã ly hôn, người sống chung với nhau
như vợ chồng; thậm chí là giữa thành viên của người đã ly hôn hoặc sống chung
với nhau như vợ chồng.
Do đó, khoản 2
Điều 3 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022 đã bổ sung thêm một số đối
tượng cũng áp dụng các hành vi bị coi là bạo lực gia đình gồm:
2. Hành vi quy định tại khoản 1 Điều này được
thực hiện giữa người đã ly hôn; người chung sống như vợ chồng; người là cha,
mẹ, con riêng, anh, chị, em của người đã ly hôn, của người chung sống như vợ
chồng; người đã từng có quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi với nhau cũng được xác
định là hành vi bạo lực gia đình theo quy định của Chính phủ.
Còn trong Luật
Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định này chỉ áp dụng với “thành viên
gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung
sống với nhau như vợ chồng”.
4. Đặt người bị bạo lực gia đình là
trung tâm phòng, chống bạo lực gia đình
Đây là nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình được
đặc biệt nhấn mạnh tại khoản 1 Điều 4 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm
2022:
Điều
4. Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình
1.
Phòng ngừa là chính, lấy người bị bạo lực gia đình là trung tâm.
Người bị bạo lực gia đình là đối tượng chịu nhiều hậu quả trực tiếp cả về
thể chất và tâm lý, là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt khi họ là những người
yếu thế trong xã hội như phụ nữ và trẻ em.
Do đó, khi ban
hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, người bị bạo lực gia đình phải là
trung tâm của các biện pháp phòng chống bạo lực. Đồng thời, không chỉ trẻ em,
người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ là các đối tượng được ưu tiên bảo vệ mà
luật mới còn bổ sung thêm một số đối tượng nữa:
2. Tôn
trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có liên quan; bảo đảm lợi ích
tốt nhất của trẻ em; ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bạo
lực gia đình là phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
người cao tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; thực
hiện bình đẳng giới.
Như vậy, hiện
nay, cả trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, người cao tuổi đều là đối tượng được
ưu tiên bảo vệ quyền lợi khi gặp phải hành vi bạo lực gia đình.
Từ 01/7/2023, Luật mới nhấn mạnh “bảo đảm lợi ích
tốt nhất của trẻ em” và bổ sung, quy định rõ thêm các đối tượng ưu tiên bảo vệ
quyền, lợi ích gồm “phụ nữ mang thai, đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không
chỉ là phụ nữ chung chung như hiện nay), người cao tuổi, người khuyết tật,
người không có khả năng tự chăm sóc…
5. Tháng 6 là tháng hành động quốc gia
phòng, chống bạo lực gia đình
Khi đề cập đến điểm mới của Luật Phòng chống bạo lực gia
đình không thể không nói đến nội dung này. Quy định này mới được bổ sung tại
Điều 7 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2022. Theo đó, tháng 6 hàng năm
được chọn để tổ chức các hoạt động nhằm thúc đẩy việc phòng, chống bạo lực gia
đình và tôn vinh giá trị gia đình.
Các hoạt động
để tổ chức Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình sẽ do Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì, chỉ đạo, hướng dẫn.
6.
Bổ sung nhiều quyền của người bị bạo lực gia đình
Hiện nay, Điều
5 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 chỉ quy định 05 quyền của nạn nhân
bạo lực gia đình:
1. Nạn nhân bạo
lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền
và lợi ích hợp pháp khác của mình;
b) Yêu cầu cơ quan,
người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy
định của Luật này;
c) Được cung
cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi
tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác theo quy định của
Luật này;
đ) Các quyền khác
theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, từ
01/7/2023, Điều 9 Luật năm 2022 có sửa đổi như sau:
- Quy định cụ thể các
thông tin được giữ bí mật: Thông tin về đời sống riêng tư,
bí mật cá nhân, bí mật gia đình.
- Bổ sung quyền được
cung cấp các kỹ năng để ứng phó với bạo lực gia đình và quyền được trợ giúp xã
hội.
- Bổ sung quyền:
+ Được yêu cầu người
bạo lực gia đình bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản
và khắc phục hậu quả;
+ Được thông tin
về quyền, nghĩa vụ về quá trình giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành
viên gia đình cũng như việc xử lý hành vi bạo lực gia đình.
+ Khiếu nại, khởi kiện,
tố cáo hành vi vi phạm phòng, chống bạo lực gia đình.
7. 6 địa chỉ tiếp nhận tin báo, tố giác hành
vi bạo lực gia đình
Hiện nay, Điều
18 quy định, khi phát hiện bạo lực gia đình, cá nhân, tổ chức báo tin cho các
cơ quan sau đây trừ trường hợp người phát hiện là nhân viên y tế hoặc nhân viên
tư vấn phát hiện bạo lực gia đình có dấu hiệu tội phạm thì báo cho người đứng
đầu để báo công an gần nhất:
- Cơ quan công
an gần nhất
- Uỷ ban nhân
dân (UBND) cấp xã.
- Người đứng
đầu cộng đồng dân cư nơi xảy ra bạo lực.
Từ 01/7/2023,
Điều 19 Luật mới quy định cụ thể các địa chỉ tiếp nhận tin báo, tố giác về bạo
lực gia đình gồm:
- UBND cấp xã
nơi bạo lực gia đình xảy ra.
- Công an, Đồn Biên
phòng gần nhất với nơi xảy ra bạo lực gia đình.
- Các trường học có người bị bạo lực gia đình học
tập.
- Trưởng
thôn, Tổ trưởng Tổ dân phố, Trưởng Ban công tác Mặt trận khu dân cư nơi xảy ra
bạo lực gia đình.
- Người
đứng đầu tổ chức chính trị, xã hội cấp xã nơi xảy ra bạo lực gia đình.
- Tổng đài phòng, chống bạo lực gia đình quốc
gia. Tuy nhiên, hiện nay chưa có tổng đài này.
Đồng thời, Luật
mới cũng quy định việc báo tin, tố giác bạo lực gia đình có thể thực hiện theo
các hình thức: Gọi điện, nhắn tin, gửi đơn hoặc thư hoặc trực tiếp.
8. Người bạo lực gia đình phải lao động
công ích
Theo điểm i khoản 1 Điều 22 Luật năm 2022,
thực hiện công việc phục vụ cộng đồng là một trong những biện pháp để ngăn chặn
bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực.
Trong khi đó, theo quy định Luật phòng
chống bạo lực gia đình năm 2007 không đưa ra biện pháp này. Theo đó, đây là
việc có quy mô nhỏ, trực tiếp phục vụ lợi ích của cộng đồng gồm:
- Trồng, chăm sóc cây xanh ở nơi công cộng;
- Sửa
chữa, làm sạch đường làng, ngõ xóm, nhà văn hoá…
- Thực hiện các
công việc cải thiện môi trường sống, cảnh quan của cộng đồng.
Do đó, người có hành vi bạo lực gia đình có thể phải
tham gia phục vụ công ích theo danh mục công việc do Chủ tịch UBND cấp xã công
nhận và quyết định, tổ chức.
9. 2
trường hợp công an xã yêu cầu người bạo lực gia đình đến trụ sở
làm việc
Nội dung này là
nội dung mới được quy định tại Điều 24 Luật năm 2022. Theo đó, sau khi được
phân công giải quyết vụ việc bạo lực gia đình, Trưởng Công an xã có quyền yêu
cầu người bạo lực đến trụ sở để làm rõ thêm các thông tin, giải quyết trong
trường hợp:
- Trẻ em, phụ
nữ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người
khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc bản thân mình là người bị bạo
lực gia đình.
- Có căn cứ cho
rằng việc bạo lực gia đình có thể tiếp tục gây nguy hiểm đến sức khoẻ, tính
mạng của nạn nhân bị bạo lực gia đình.
Việc yêu cầu
đến trụ sở làm việc phải được lập biên bản và có người trong cộng đồng dân cư
chứng kiến.
10. Trình
tự giải quyết tin báo, tố giác bạo lực gia đình
Việc xử lý tin
báo, tố giác về bạo lực gia đình được quy định cụ thể tại Điều 20 Luật Phòng
chống bạo lực gia đình năm 2022:
Bước 1: Cá
nhân tổ chức báo tin, tố giác bạo lực gia đình tại một trong 06 địa chỉ tiếp
nhận tin báo, tố giác nêu trên.
Bước 2: Sau
khi nhận được tin báo, tố giác thì công an, Đồn Biên phòng nơi xảy ra hành vi
bạo lực thực hiện:
- Kịp
thời ngăn chặn, xử lý trong phạm vi quyền hạn của mình.
- Thông
báo cho Chủ tịch UBND cấp xã nơi xảy ra hành vi bạo lực
Bước 3: Chủ tịch UBND cấp xã xử lý/phân công xử lý
ngay khi tiếp nhận tin báo, tố giác về bạo lực gia đình hoặc báo cáo bạo lực
gia đình trừ trường hợp có dấu hiệu hình sự.
Riêng người bị
bạo lực là trẻ em, phụ nữ mang thai/đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao
tuổi, người khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc hoặc có khả năng
gây nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng người bị bạo lực thì Chủ tịch UBND cấp xã
phân công công an xã xử lý ngay.